Đà Lạt Lâm Đồng

Sự ra đời của Đà Lạt

sự ra đời của đà lạt

Bài phỏng vấn ông Élie Joseph Marie Cunhac của ký giả A. Baudrit đăng trên Tuần san Indochine năm 1944 có thể xem là một tài liệu quan trọng về giai đoạn khai sinh thành phố Đà Lạt. Bài viết trên nằm trong cuốn sách Việt Nam qua Tuần san Indochine 1941-1944 (Lưu Đình Tuân tuyển dịch, Omega+ & NXB Thế giới ấn hành, 2019). Chuyện Đà Lạt xin trích giới thiệu.

Trước khi thời gian còn chưa kịp xóa đi những kỷ niệm, tôi thấy vạch lại mấy nét những hoàn cảnh khiến cho thành phố Đà Lạt được sinh ra và phát triển cũng là một việc lý thú. Để có được những kết quả nghiên cứu, không gì chắc chắn hơn là hỏi chuyện người lớn tuổi ở ngay cái thành phố trên cao đó là ông [Élie Joseph Marie] Cunhac, một người sáng lập ra thành phố và là một quan chức đầu tiên của thành phố.

Ông Cunhac rất muốn nhắc lại cho độc giả của Indochine những kỷ niệm đã nửa thế kỷ của mình và tìm trong bộ sưu tập ảnh đồ sộ của mình, những chứng vật của một thời kỳ, những bức ảnh cho chúng ta thấy vẻ nguyên thủy của điểm nghỉ mát trên cao xinh xắn này.

sự ra đời của đà lạt

Trước tiên tôi hỏi ông Cunhac ông đã tới đây khi nào và trong trường hợp nào. Câu trả lời của ông như một câu chuyện về sự thành lập Đà Lạt:

– Élie Joseph Marie Cunhac: Cao nguyên Đà Lạt được bác sĩ Yersin phát hiện ra vào năm 1893 sau nhiều lần thực hiện những cuộc thăm dò trong dãy Trường Sơn. Năm 1897, ông báo những phát hiện của mình cho Toàn quyền Paul Doumer lúc đó đang dự kiến thành lập ở Đông Dương một trạm nghỉ mát trên cao cho người châu Âu. Tháng 10 năm đó, một đoàn quân sự được thành lập để tìm con đường dễ nhất từ Nha Trang lên cao nguyên Lang Biang.

Đoàn được đặt dưới sự chỉ huy của đại úy pháo binh Thouard; phó đoàn là trung úy lính thủy đánh bộ Wolf. Đoàn gồm có: viên đội Cunhac, trợ lý đo vẽ địa hình, hạ sĩ Abriac chịu trách nhiệm về culi và vận chuyển, lính thủy đánh bộ Missigbrod, người vùng Poméranie, nguyên là lính lê dương, lính hầu của trung úy, một tay rất tháo vát, cuối cùng là hai hay ba người lính An Nam và một người dẫn đường; người dẫn đường này không ai khác hơn là người lính bốn năm trước đây đã đi theo bác sĩ Yersin lên cao nguyên.

– Chuyến đi như thế nào, chắc là nhiều khó khăn lắm?

– Đoàn ra đi từ Sài Gòn, tới Nha Trang vào cuối tháng 10-1897 và chỉ ít lâu sau đó bắt tay ngay vào việc đi lên vùng phía trên của lưu vực sông Nha Trang. Sau khoảng một tháng thám hiểm địa hình rất khó khăn, thậm chí nặng nhọc, trong các vùng núi chỉ có vài bộ lạc Mọi chưa hàng phục và thù địch, đoàn tới được thung lũng Đa Nhim ở thượng lưu sông Dran, ở xóm Loupah của người Thượng. Từ xóm này, đoàn men theo bờ phải của con sông, tới Finnom (Phi Nôm) thì vượt sông Datam (Đạ Tam), một chi lưu của sông Đa Nhim. Đoàn ngược con sông này tới tận gờ Nam của cao nguyên, qua thác Prenn và cuối cùng tới Đà Lạt, gần chỗ nay là nhà nghỉ Auberge Savoisienne.

– Khi lên được cao nguyên, đoàn ở đâu?

– Sau khi ở lều một thời gian bên bờ sông Cam Ly, đoàn tạm thời ở Dankia, trung tâm làm việc và tiếp tế. Hơn nữa, ở đó còn có một làng Thượng khá lớn trong khi các nơi đều hoang vắng. Về phía Manline có hai hay ba xóm của người Lat, tất cả chỉ có thế! Trên đó rất nghèo, chính vì thế hầu như không có người ở. Ở Dankia, chúng tôi có lợi là ở trung tâm của vùng, vừa có thể dựng bản đồ vừa có thể đổi các đồ vật lấy thực phẩm.

Chúng tôi để anh lính Missigbrod ở lại Dankia và lại xuống khỏi cao nguyên một chút về phía bờ biển; ngay lập tức anh này bắt tay ngay vào việc làm một vườn rau và chăn nuôi nhằm cung cấp thực phẩm cho đoàn; đó chính là những khởi đầu khiêm tốn của “Trại Dankia” sau này.

Công việc kéo dài 11 tháng, kết thúc vào tháng 9-1898, và đoàn quay về Sài Gòn.

– Khi đó bắt đầu xây dựng Đà Lạt à ?

– Chưa! Từ khi tìm ra vị trí, một đoàn thứ hai (1898-1899) được Toàn quyền Doumer phái đi như đoàn thứ nhất và đặt dưới quyền chỉ huy của đại úy kỵ binh Guynet, có nhiệm vụ vạch một con đường lên cao nguyên. Trước hết, đoàn phải làm một con đường không trải đá nhưng xe đi được từ Phan Rang hướng lên phía Bắc tới chân dãy Trường Sơn. Tiếp theo đó là một con đường có độ dốc trung bình 8%, lừa đi được, lên tới cao nguyên Lang Bian.

Tôi là thành viên của đoàn này, ban đầu với chức danh là thư ký đặc biệt của đại úy, sau đó được trao nhiệm vụ nghiên cứu và xây dựng con đường dự kiến.

Điểm xuất phát được chọn ở Xóm-gòn, bên bờ sông Phan Rang và ở chân dãy Trường Sơn, tiếp tới chúng tôi chọn Đá-bàn (Daban) trên đèo Krompha[1], điểm này thực tế mới là điểm khởi đầu cho việc leo lên cao nguyên. Cây cầu vượt sông Phan Rang lúc đó ở chỗ hơi lui về phía thượng lưu cây cầu đường sắt hiện nay. Tại chỗ đó, người ta làm một cây cầu nhỏ hai nhịp, loại tháo lắp được của công binh, đặt trên các giá đỡ. Con đường mòn đi qua Dran và Arbre-Broyé [Cầu Đất] để lên tới cao nguyên. Đoàn Guynet hoàn thành công việc vào tháng 10-1898.

– Lúc đó Đà Lạt như thế nào?

– Vẻ nguyên thủy hầu như chỉ bị thay đổi vào những năm gần đây. Tại vị trí hồ[2] có một con suối nhỏ nằm trong khu vực của bộ lạc Lat và người ta gọi nó là Da-Lat* (da hay dak theo tiếng Thượng có nghĩa là nước) và con suối này, vì một một lý do tôi cũng lờ mờ, được người ta đổi thành tên An Nam là Cam Ly.

Và ông Cunhac cho tôi xem bức ảnh có một chiếc cầu nhỏ bắc ngang qua một con suối tại chỗ nó trở thành một cái hồ. Những lần san lấp suối và con đường qua suối trên những chỗ san lấp đó sau này trở thành con đập đầu tiên chặn suối Cam Ly trước chiếc ki-ốt ở chân đồi golf. Ở bên phải ta thấy đồi; ở bên trái ta thấy tòa công sứ; phía xa là hai đỉnh Langbian.

Ngày nay biết nền hành chính Đà Lạt khởi đầu như thế nào cũng là một điều lý thú vì, nói tóm lại, trong một thời gian dài Đà Lạt chỉ là một thành phố tiềm tàng. Đầu thế kỷ [XX] Đà Lạt là một nơi giàu có trong tương lai nhưng chỉ có thế thôi à?

– Sau chuyến công tác của đoàn Gyunet, người ta thành lập tỉnh Mọi Đồng Nai Thượng (Province moï du Haut-Donnaï) vào năm 1899 với tỉnh lỵ ở Djiring; công sứ là ông Ernest Outrey. Nhiệm vụ chủ yếu của ông ta là tuyển nhân công cho rất nhiều đoàn nghiên cứu rải rác từ Biên Hòa qua Tánh Linh tới Djiring. Các đoàn này có nhiệm vụ chính là thám sát và nghiên cứu để vạch ra một con đường sắt nối vùng ven biển với cao nguyên.

Ông Outray có dưới quyền của tỉnh mình thêm cả Đà Lạt; năm 1900 ông cho xây dựng tại chỗ nay là Tòa Đốc lý một ngôi nhà sàn bằng gỗ lợp tôn.

Năm 1901, tỉnh Đồng Nai Thượng bị bỏ, Djiring chuyển thành đại lý và thuộc Phan Thiết, trong khi Đà Lạt cũng là đại lý nhưng thuộc Phan Rang.

Tôi là trưởng đại lý đầu tiên của Đà Lạt; người kế nhiệm tôi là ông Canivey. Rời Đà Lạt, tôi trở thành trưởng đại lý Djiring từ 1903 tới 1915.

– Đà Lạt không còn là đại lý từ khi nào?

– Khoảng tháng hai, tháng ba năm 1916 thì tỉnh Langbian được thành lập, giống như tỉnh Đồng Nai Thượng, với tỉnh lỵ ở Đà Lạt.

Lúc đó tôi rời Djiring để làm công sứ tỉnh mới này. Nhưng năm 1920 Đà Lạt trở thành một hạt tự trị được giao cho ông [Léon] Garnier làm Tổng ủy viên của Phủ toàn quyền. Tuy vậy tôi vẫn ở lại làm công sứ tỉnh và kiêm thêm chức ủy viên phó cho ông Garnier.

sự ra đời của đà lạt

– Lúc đó tòa nhà hành chính đặt ở đâu?

– Trong một cái nhà gỗ có lầu kiểu nhà ở miền núi Thụy sĩ. Tôi ở trên lầu còn các văn phòng ở phía dưới.

– Còn nguồn gốc tòa nhà hành chính hiện nay như thế nào?

– Đó là một cái chòi do thành phố Sài Gòn làm, trên mái hiện nay ta vẫn còn thấy một chữ S to cải bằng ngói đỏ tươi để chỉ Sài Gòn. Ngôi nhà đó đã được thành phố Đà Lạt mua lại.

-Thế còn những ngôi nhà khác?

– Có một cái nhà dã ngoại (sala) cho những tay đi săn ở xa hẹn nhau tới tụ hội.

Và ông cho tôi xem một bức ảnh khác, trong đó tôi thấy trước ngôi nhà tiền thân của khách sạn Desanti* (nay là khách sạn Lac) là một dãy hươu bị bắn hạ nằm trước hiên khách sạn đầu tiên của Đà Lạt.

Khách sạn sang đầu tiên của Đà Lạt.

Ông tiếp:

– Hồi đó còn có những ngôi nhà khác nữa hiện nay vẫn còn như ngôi nhà nhỏ một tầng trước khách sạn Lac* (trên miếng đất chìa ra của sân vận động); tại đèo Prenn vào Đà Lạt, ngôi nhà đầu tiên ở bên trái và ngôi nhà đầu tiên ở bên phải là hai ngôi nhà cùng thời với sự bùng nổ của Đà Lạt. Về phần người An Nam, họ cũng tới Đà Lạt gần cùng với người Pháp, họ ở trên đồi phía Tây trông xuống chợ.

– Thế còn Hồ[3], một vòng hoa trang điểm đẹp của Đà Lạt, ai và khi nào bắt tay vào xây dựng nó?

– Hồ được hình thành tương đối gần đây. Theo đề xuất của tôi, thực tế nó được xây dựng quãng năm 1919 bởi ông Labbé, kỹ sư Sở Công chính. Những chỗ san lấp cũ để làm nền đường lại được nâng cao thêm và kéo dài trong khoảng các năm 1921-1922 theo lệnh của Công sứ [Léon] Garnier; năm sau một con đê thứ hai được xây dựng phía hạ lưu con đê thứ nhất để tạo ra hai hồ. Hai con đê này do không đủ thoát một lượng tràn đủ lớn nên đã bị vỡ trong cơn bão tháng 5-1932. Ngay lập tức người ta làm lại hai con đê khác theo các thông số cũ. Con đê hiện nay bằng đá được xây dựng trong khoảng thời gian 1934-1935 và lui về phía hạ lưu hơn so với những con đê trước.

– Vào lúc Đà Lạt bắt đầu có du khách tới thì họ tới bằng đường nào?

– Họ tới bằng đường từ Phan Thiết và Djiring. Trong 12 năm ở Djiring, nhờ sự giúp đỡ của ông Garnier lúc đó là công sứ Phan Thiết, tôi đã nghiên cứu việc xây dựng đường ô tô không trải đá lên cao nguyên. Con đường này khởi đầu ở Gian-mau, cách Phan Thiết 19km[4], chạy tới được Djiring vào năm 1914; đoạn Djiring–Đà Lạt được xây dựng trong khoảng 1914-1915.

– Thế lúc đó người ta vượt qua sông Đa Nhim như thế nào?

– Ban đầu bằng những chiếc thuyền độc mộc của người Thượng; sau đó tôi cho làm một thứ kiểu như phà do nhiều chiếc thuyền độc mộc ghép lại trên phủ ván* (xem ảnh).

Phương tiện qua sông Đa Nhim trong khoảng 1910 tới 1915.

Dây kéo bằng những sợi mây, sau đó bằng da trâu, dần dần bằng cáp kim loại. Sau đó tôi thử làm một cây cầu bằng các thuyền ghép lại; cuối cùng vào năm 1915, tôi bắt đầu xây dựng một cây cầu bằng gỗ. Cây cầu này bằng gỗ dầu, dài khoảng 100m, cách mặt nước trung bình khoảng 6m và có thể chịu được tải trọng 10 tấn* (xem ảnh). Do không có một khoản tín dụng nào nên tôi không thể mua được đinh để thực hiện công trình; vì thế các thanh cầu được ráp với nhau bằng những chốt bằng gỗ rắn, tuy vậy nhưng cũng được.

Cây cầu đầu tiên qua sông Đa Nhim* (1915).

Nhớ lại những công trình đầu tiên của mình, giờ đây nhìn thấy cây cầu do công ty Levallois-Perret thực hiện, ông nói với tôi vài lời về chúng. Tự đáy lòng, ông so sánh cây cầu đầu tiên bằng thuyền của mình với những công trình lớn hiện nay có thể đương đầu với những thách thức của tự nhiên. Đó là tiến trình tất yếu! Nhưng phải có ai đó xẻ đường để những người đi sau qua được dễ dàng hơn.

Ngày nay Đà Lạt với những dinh, khách sạn và biệt thự xinh xắn là một góc nhỏ của nước Pháp ở một vùng ngày xưa cô lập và thù địch. Để có được những thành quả đó chúng ta phải biết ơn ba người: bác sĩ Yersin. Người đã phát hiện ra cao nguyên; Toàn quyền Paul Doumer, người đã quyết định xây dựng điểm nghỉ mát trên cao nguyên; và ông Cunhac, người đầu tiên thực hiện dự án.[5]

A. Baudrit thực hiện

Theo Tuần san Indochine, số 180 ngày 10-2-1944 .

[1] Đèo Sông Pha hay còn gọi là đèo Ngoạn Mục (Bellevue). [Người biên tập sách ghi chú: Krompha trong nguyên bản có lẽ là lỗi chính tả. tên đèo là Krong Pha, đúng nghĩa là Sông Pha. Tương tự, Xóm Gòn trong nguyên bản viết là Xomgom]

[2] Các mô tả tiếp theo cho thấy đây là hồ Xuân Hương.

[3] Nguyên văn Lac, tên chính thức lúc đó của hồ Xuân Hương hiện nay.

[4] Tại tọa độ tương đương, hiện có thôn Giang Mâu (thuộc xã Hàm Trí, huyện Hàm Thuận Bắc, Bình Thuận) đúng trên con đường đi Di Linh/Djiring (cám ơn nhà báo NLĐ đã tìm giúp địa danh này). Thôn Giang Mâu – tên Champa là Palei Muw (Palei = Thôn) – của người Chăm Bàni và tại đây có một thánh đường (masjid) Bàni cùng tên. Palei Muw giáp ga (và là thị trấn huyện lỵ) Ma Lâm trên đường sắt xuyên Việt. (Biên tập sách ghi chú)

[5] Tên của E. J. Cunhac được đặt cho một đường phố gần hồ Xuân Hương, cắt ngang suối Cam Ly tại đầu công viên Ánh sáng hiện nay. Năm 1953, nhà thơ Nguyễn Vỹ – khi trúng cử Hội đồng Thị chính Đà Lạt – đã đề nghị đổi hầu hết tên đường sang tên Việt Nam… Đường Cunhac mang tên Bà Triệu từ đó tới nay. (Người biên tập sách ghi chú)

Đăng bởi: Dư Đức Cường

YOLO! Khám phá các huyện ở Lâm Đồng

ALONGWALKER Singapore: The channel to explore experiences of global youth ALONGWALKER Philippines: The channel to explore experiences of global youth ALONGWALKER Indonesia: Saluran untuk mengeksplorasi pengalaman para pemuda global ALONGWALKER Malaysia: Saluran untuk menjelajahi pengalaman global belia ALONGWALKER Japan: 発見・体験、日本旅行に関する記事 ALONGWALKER Thailand: ช่องทางในการสำรวจประสบการณ์ของเยาวชนระดับโลก