Reviews Top List

18 Bài soạn "Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn lớp 8 hay nhất

Tác phẩm "Hịch tướng sĩ" được viết vào khoảng thời gian trước cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lược nước ta lần thứ 2, Trần Quốc Tuấn là danh tướng kiệt xuất của dân tộc, ông lập nhiều chiến công lớn với ba lần đánh tan quân Nguyên Mông xâm lược. Lúc này quân giặc rất mạnh, muốn đánh bại chúng phải có sự đồng tình, ủng hộ của toàn dân, toàn quân. Vì vậy, Trần Quốc Tuấn đã viết bài hịch này để kêu gọi tướng sĩ hết lòng đánh giặc. Mời các bạn tham khảo một số bài soạn hay nhất mà chúng mình tổng hợp trong bài viết dưới đây để hiểu tác phẩm và chuẩn bị tốt nhất nội dung lên lớp.

Bài soạn “Hịch tướng sĩ” số 1

I. Đôi nét về tác giả Trần Quốc Tuấn- Trần Quốc Tuấn (1231-1300) còn được gọi là Hưng Đạo Đại Vương- Cuộc đời:+ Là danh tướng kiệt xuất của dân tộc+ Năm 1285 và năm 1288. Ông chỉ huy quân đội đánh tan hai cuộc xâm lược của quân Nguyên-Mông+ Ông lập nhiều chiến công lớn: 3 lần đánh tan quân Nguyên Mông+ Tác phẩm nổi bật: Binh thư yếu lược, Đại Việt sử kí toàn thưII. Đôi nét về tác phẩm Hịch tướng sĩ1. Hoàn cảnh sáng tác- Được viết vào khoảng thời gian trước cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ hai (1285): Khi giặc Nguyên Mông sang xâm lược nước ta lần thứ hai, lúc này quân giặc rất mạnh muốn đánh bại chúng phải có sự đồng tình, ủng hộ của toàn quân, toàn dân, vì vậy Trần Quốc Tuấn đã viết bài hịch này để kêu gọi tướng sĩ hết lòng đánh giặc2. Thể loại: Hịch3. Bố cục- Chia làm 3 phần:+ Phần 1: Từ đầu đến “lưu tiếng tốt”: Nêu tên những trung thần nghĩa sĩ được sử sách lưu danh+ Phần 1: Từ tiếp đến “ta cũng vui lòng”: Tình hình đất nước hiện tại và nỗi lòng của người chủ tướng+ Phần 3: Còn lại: Phê phán những biểu hiện sai trái tong hàng ngũ quân sĩ4. Giá trị nội dung- Bài Hịch phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thể hiện lòng căm thù giặc và ý chí quyết thắng.5. Giá trị nghệ thuật- Hịch tướng sĩ là một áng văn chính luận xuất sắc- Lập luận chặt chẽ, lĩ lẽ rõ ràng, giàu hình ảnh, có sức thuyết phục cao- Kết hợp hài hoà giữa lí trí và tình cảm
– Lời văn giàu hình ảnh nhạc điệu

III.Đọc – hiểu văn bản

Câu 1. Bài hịch có thể chia làm ba đoạn.

a. Đoạn 1 : Từ đầu đến ‘… lưu tiếng tốt’ : nêu gương sử sách nhằm khích lệ ý chí lập công danh, hi sinh vì nước ở các tướng sĩ.

b. Đoạn 2 : ‘Huống chỉ ta cùng các ngươi…’ đến ‘… cũng chẳng kém gì’. Quay về thực tế, lột tả tội ác và sự ngang ngược của giặc đồng thời nêu mối ân tình giữa chủ và tướng.

c. Đoạn 3 : Phần còn lại : Phê phán thái độ, hành động sai trái của các tướng sĩ và chỉ ra cho tướng sĩ những thái độ, hành động đừng nên theo, cần làm.

Câu 2. Tội ác và sự ngang ngược của kẻ thù được lột tả bằng những hành động thực tế và qua cách diễn tả bằng những hình ảnh ẩn dụ. Kẻ thù tham lam tàn bạo : đòi ngọc lụa, hạch sách bạc vàng, vét kiệt của kho có hạn, hung hãn như hổ đói. Kẻ thì ngang ngược đi lại nghênh ngang ngoài đường, bắt nạt tể phụ. Những hình tượng ẩn dụ ‘lưỡi cú diều’, ‘thân dê chó’ để chỉ sứ Nguyên cho thấy nỗi căm giận và lòng khinh bỉ giặc của Hưng Đạo Vương. Đồng thời, đặt những hình tượng đó trong thế tương quan ‘lưỡi cú diều’, ‘xỉ mắng triều đình’, ‘thân dê chó’, ‘bắt nạt tể phụ’. Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra nỗi nhục lớn của mọi người khi chủ quyền đất nước bị xâm phạm. Có thể so sánh với thực tế lịch sử, năm 1277 Sài Xuân đi sứ buộc ta lên tận biên giới đón rước. Năm 1281, Sài Xuân lại sang sứ, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh, quân sĩ Thiên Trường ngăn lại, bị Xuân lấy roi đánh toạn cả đầu. Vua sai Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải ra đón tiếp. Xuân nằm khểnh không dậy. So sánh với thực tế sẽ thấy tác dụng của lời hịch như lửa đổ thêm dầu.

Đoạn văn tố cáo tội ác giặc đã khơi gợi được lòng căm thù giặc, khích lệ tinh thần yêu nước bất khuất, ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của tướng sĩ.

Câu 3. Lòng yêu nước căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn thể hiện qua hành động : quên ăn, mất ngủ, đau đớn đến thắt tim, thắt ruột, thể hiện qua thái độ : uất ức, căm tức khi chưa trả thù, sẵn sàng hy sinh để rửa mối nhục cho đất nước. Bao nhiêu tâm huyết, bút lục của Trần Quốc Tuấn dồn vào đoạn : ‘Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng’. Mỗi chữ mỗi lời như chảy trực tiếp từ trái tim qua ngòi bút lên trang giấy. Câu văn chính luận mà đã khắc họa thật sinh động hình tượng người anh hùng yêu nước, đau xót đến quặn lòng trước cảnh tình đất nước, căm thù đến bầm gian tím ruột mong rửa nhục đến mất ngủ quên ăn, vì nghĩa lớn mà coi thường xương tan, thịt nát. Khi tự bày tỏ gan ruột, chính Trần Quốc Tuấn đã là một tấm gương yêu nước bất khuất có tác dụng động viên to lớn đối với tướng sĩ.

Câu 4. Nêu mối ân tình giữa mình và tướng sĩ. Trần Quốc Tuấn đã khích động ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi người đối với lẽ vua tôi cũng như đối với mình cốt nhục. Không chỉ vậy, tác giả Trần Quốc Tuấn còn chân tình chỉ bảo và phê phán nghiêm khắc hành động hưởng lạc, thái độ bàng quan trước vận mệnh của đất nước của tướng sĩ, ‘làm cho họ tức khí, muốn mau chóng chứng minh tài năng, phẩm chất của mình bằng việc làm thiết thực’ (Trần Đình Sử).

Cùng với việc phê phán thái độ, hành động sai, Trần Quốc Tuấn còn chỉ ra những việc đúng nên làm. Đó là nêu cao tinh thần cảnh giác, chăm lo ‘tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ’. Những hành động này đều xuất phát từ mục đích quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược.

Khi phê phán hay khẳng định, tác giả đều tập trung khích lệ từ ý chí lập công danh, lòng tự trọng cá nhân, tự tôn dân tộc đến lòng căm thù giặc, tinh thần trung quân ái quốc, nghĩa tình cốt nhục… để cuối cùng khích lệ lòng yêu nước bất khuất, quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược. Điều này rất cần thiết trong hoàn cảnh nước nhà lâm vào thế nước sôi lửa bỏng, nó thanh toán những thái độ và hành động trù trừ trong hành ngũ tướng sĩ, động viên những ai còn thờ ơ, do dự hãy đứng hẳn sang phía lực lượng quyết tâm tiêu diệt kẻ thù.

Câu 5. Giọng văn rất linh hoạt, có khi là lời vị chủ soái nói với tướng sĩ dưới quền (‘Các ngươi ở cùng ta… đi bộ thì ta cho ngựa’, ‘Nay các ngươi nhìn chủ nhục… thẹn’), có khi là lời người cùng ảnh ngộ (‘Huống chi ta… gian nan’, ‘lúc trận mạc… vui cười’, ‘Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi… bại trận’) lúc là lời khuyên răn bày tỏ thiệt hơn (‘Như vậy, chẳng những … không muốn vui vẻ phỏng có được không ?), khi lại là lời nghiêm khắc cảnh cáo (làm tướng triều đình… muốn vui vẻ phỏng có được không ?)…

Sự thay đổi giọng điệu như vậy phù hợp với nội dung cảm xúc và thái độ của tác giả, tác động cả về trí lẫn tình cảm, khơi dậy trách nhiệm của mọi người đối với chủ tướng cũng như với bản thân họ.

Giọng văn khi bi thiết nghẹ ngào, lúc sục sôi hùng hồn, khi mỉa mai chế giễu, khi nghiêm khắc như xỉ mắng, lại có lúc ra lệnh dứt khoát.Kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén.Sử dụng kiểu câu nguyên nhân – kết quả.Biện pháp tu từ : so sánh, điệp từ ngữ, điệp ý tăng tiến, phóng đại…Sử dụng những hình tượng nghệ thuật gợi cảm, dễ hiểu.

Câu 7. Lược đồ kết cấu bài hịch.

Khích lệ lòng căm thù giặc, nỗi nhục mất nước.Khích lệ lòng trung quân ái quốc và lòng ân nghĩa thủy chung của người cùng cảnh ngộ.Khích lệ ý chí lập công danh, xả thân vì nước.Khích lệ lòng tự trọng, liêm sỉ ở mỗi người khi nhận rõ cái sai, thấy rõ điều đúng.
= > Thất cả những ý trên nhằm khích lệ lòng yêu nước bất khuất, quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược.

I. Luyện tập (Gợi ý những điểm chính).

Câu 1: Cảm nhận về lòng yêu nước của tác giả được thể hiện qua bài hịch :

Lòng yêu nước được hiện rất phong phú ở nhiều sắc độ :Lòng căm thù giặc sâu sắc.Nhục nhã cho thể diện dân tộc.Đau đớn day dứt vì chưa tiêu diệt được kẻ thù.Nghiêm khắc phê phán thái độ ăn chơi hưởng lạc thờ ơ trước vận mệnh đất nước của các tướng sĩ.
Khích lệ lòng tự tôn dân tộc, lòng yêu nước thiết tha ở tướng sĩ…

Lòng yêu nước được diễn tả bằng những nét đặc sắc về nghệ thuật (xem câu 6).Lòng yêu nước của tác giả kế tục truyền thống yêu nước ngàn năm của dân tộc và được phát huy không chỉ trên câu chữ, lời hịch mà ngay trong hành động thực tế lãnh đạo quân dân nhà Trần chống quân thù. Đây là tình cảm của tác giả mà cũng là nỗi lòng của mọi người dân ta lúc này.

Câu 2. ‘Hịch tướng sĩ’ vừa có lập luận chặt chẽ, sắc bén vừa giàu hình tượng, cảm xúc :

Lập luận chặt chẽ sắc bén (kết cấu gồm 3 phần – xem câu 1, lý lẽ sắc bén có xưa – nay, gồm hơn – thiệt, trách nhiệm – quyền lợi,…, dẫn chứng sử sách chính xác, dễ hiểu).Giàu hình tượng, cảm xúc :
Khi tố cáo tội ác của kẻ thù, Trần Quốc Tuấn viết là lũ ‘cú diều’, là loài ‘dê chó’, cao hơn nữa chúng chỉ là những con ‘hổ đói’ đang tìm cách săn mồi. Qua những hình ảnh ẩn dụ bọn sứ giặc không còn đại diện cho một quốc gia, không còn là con người. Chúng chỉ còn là lũ ác thú gian manh, là bọn giặc thù.

Khi bày tỏ tấm lòng mình, Trần Quốc Tuấn đã khắc họa được sống động hình tượng một vị chủ tướng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc. Qua những hình ảnh thậm xưng, lối nói điệp ý và tăng tiến, người đọc hình dung vị chủ tướng đó đau xót đến quặn lòng trước cảnh tình đất nước, căm thù giặc đến bầm gan tím ruột, mong rửa nhục đến mất ngủ quên ăn, vì nghĩa lớn mà coi thường thịt nát, xương tan.

Cảm xúc trong bài hịch rất đa dạng. Khi thống thiết, khi sục sôi, khi nghiêm khắc, lúc lại ân tình…


Bài soạn “Hịch tướng sĩ” số 1

Bài soạn “Hịch tướng sĩ” số 2

I. VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM

1. Tác giả

Trần Quốc Tuấn (1231? – 1300), tước Hưng Đạo Vương là một danh tướng kiệt xuất của dân tộc. Năm 1285 và năm 1287, quân Mông – Nguyên xâm lược nước ta, lần nào ông cũng được Trần Nhân Tông cử làm Tiết chế thống lĩnh các đạo quân ra trận, và cả hai lần đều thắng lợi vẻ vang.

Đời Trần Anh Tông, ông về trí sĩ ở Vạn Kiếp (nay là xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) rồi mất ở đấy. Nhân dân tôn thờ ông là Đức thánh Trần và lập đền thờ ở nhiều nơi trên đất nước.

2. Thể loại

Một thể văn thư cổ mà các tướng lĩnh, vua chúa hoặc người thủ lĩnh một tổ chức, một phong trào dùng để kêu gọi cổ vũ mọi người hăng hái chiến đấu tiêu diệt kẻ thù.

Bài hịch tiêu biểu và có giá trị nhất trong văn học Việt Nam là bài Hịch tướng sĩ văn của Trần Hưng Đạo (thế kỉ XIII). Thời kì Pháp xâm lược nước ta (nửa sau thế kỉ XIX) nhiều hịch bằng chữ Nôm xuất hiện và được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân (như Hịch đánh Tây của Lãnh Cồ, Hịch đánh chuột của Nguyễn Đình Chiểu…).

Hịch thường được viết theo lối văn tứ lục, cũng có khi viết bằng văn xuôi hay thơ lục bát.

Một bài hịch thường được cấu trúc theo ba phần chính:

Phần đầu: nêu lên một nguyên lí đạo đức hay chính trị làm cơ sở tư tưởng, lí luận.

Phần giữa: nêu thực trạng đáng chú ý (thường là kể tội kẻ thù).

Phần cuối: nêu giải pháp và lời kêu gọi chiến đấu. Hịch viết xong thường được vào ống hịch và do các sứ giả truyền đi khắp nơi. Nếu như hịch khẩn cấp thì trên đầu ống hịch thường có một chùm lông gà (do vậy mà gọi là vũ hịch). (Theo Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, 1992).

3. Tác phẩm

Nửa cuối thế kỉ XIII, chỉ trong ba mươi năm (1257 – 1287), giặc Mông – Nguyên đã ba lần kéo quân sang xâm lược nước ta. Lúc bấy giờ thế giặc rất mạnh, muốn đánh bại chúng phải có sự đồng tình, ủng hộ của toàn quân, toàn dân. Trần Quốc Tuấn đã viết bài hịch này để kêu gọi tướng sĩ hết lòng đánh giặc.

Để kêu gọi lòng dân, người viết có thể dùng nhiều cách khác nhau. Có khi chỉ cần nêu lên thực trạng, khơi gợi truyền thống yêu nước, căm thù giặc… Trong bài hịch này, Trần Quốc Tuấn đã sử dụng một giọng điệu, cách viết rất phong phú. Khi thì ông lấy tấm gương của người đời xưa, khi thì dùng cách “khích tướng”, có khi lại an ủi, vỗ về đối với đối tượng… Đó chính là cái hay, cái độc đáo của tác phẩm này.

II. TRẢ LỜI CÂU HỎI SGK

Câu 1. Bài hịch có thể chia làm mấy đoạn? Nêu ý chính của từng đoạn.

Trả lời:

Bài hịch bố cục thành 4 đoạn:

– Đoạn 1 (từ đầu đến “đến nay còn lưu tiếng tốt.”): tác giả nêu ra các gương “trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước” đã được lưu truyền trong sử sách để khích lệ lòng người.

– Đoạn 2 (từ “Huống chi ta” đến “ta cũng vui lòng.”): từ việc phơi bày bộ mặt xấu xa của sứ giặc, tác giả bày tỏ lòng căm thù giặc sâu sắc.

– Đoạn 3 (từ “Các ngươi ở cùng ta” đến “không muốn vui vẻ phỏng có được không ?“): từ khắc sâu mối gắn bó ân tình giữa chủ và tướng, tác giả phân tích rõ thiệt hơn, được mất, đúng sai để chấn chỉnh những sai lạc trong hàng ngũ tướng sĩ (từ “Các ngươi” đến “muốn vui vẻ phỏng có được không ?“) và đi đến việc vạch ra đường hướng hành động đúng, hứa hẹn tương lai (từ “Nay ta bảo thật” đến “không muốn vui vẻ phỏng có được không ?“).

– Đoạn 4 (từ “Nay ta chọn binh pháp” đến hết): nêu ra việc trước mắt phải làm và kết thúc bằng những lời khích lệ nghĩa khí tướng sĩ.

Câu 2. Sự ngang ngược và tội ác của giặc được lột tả như thế nào? Đoạn văn tố cáo tội ác giặc đã khơi gợi được điều gì ở tướng sĩ?

Tác giả lột tả sự ngang ngược và tội ác của giặc:

“Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu vàng bạc, để vét của kho có hạn. Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai vạ về sau !”

– Bộ mặt của quân giặc được phơi bày bằng những sự việc trong thực tế : đi lại nghênh ngang, sỉ mắng triều đình, bắt nạt tể phụ, đòi ngọc lụa, thu vàng bạc, vét của kho có hạn…

– Để lột tả sự ngang ngược và tội ác tham tàn của giặc, đồng thời bày tỏ thái độ căm thù, khinh bỉ cực độ, tác giả đã dùng lối nói hình ảnh so sánh, ẩn dụ:

+ Hình ảnh chỉ quân giặc: lưỡi cú diều, thân dê chó, hổ đói,…

+ Các hình ảnh được đặt trong thế đối sánh để tỏ rõ thái độ căm thù, khinh bỉ: uốn lưỡi cú diều – sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó – bắt nạt tể phụ.

– Tố cáo tội ác của giặc, tác giả đã khơi gợi lòng tự trọng dân tộc, khắc sâu lòng căm thù ngoại xâm ở tướng sĩ.

Câu 3. Phân tích lòng yêu nước, căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn qua đoạn văn tác giả tự nói lên nỗi lòng mình.

Sau khi tố cáo tội ác của giặc, Trần Quốc Tuấn đã bày tỏ lòng yêu nước, căm thù giặc của mình, có thể xem đây là đoạn văn hay nhất của bài hịch: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa được xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.”

– Nỗi đau trước cảnh nước mất nhà tan được diễn tả thống thiết: quên ăn, mất ngủ, lòng đau như dao cắt, nước mắt đầm đìa. Uất hận trào dâng đến cực điểm khi tác giả bộc lộ thái độ của mình đối với kẻ thù: chỉ căm tức chưa được xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù.

– Vị tướng đã tự xác định một tinh thần hi sinh hết mình cho đất nước: Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.

– Qua đoạn văn này, hình tượng người anh hùng yêu nước, sẵn sàng xả thân vì đất nước được khắc hoạ rõ nét. Những lời tâm huyết, gan ruột của vị tướng có sức lay động mạnh mẽ, truyền cho tướng sĩ tinh thần yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc sục sôi và một thái độ xả thân, chấp nhận hi sinh vì non sông xã tắc.

Câu 4. Sau khi nêu mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn phê phán những hành động sai của tướng sĩ, đồng thời khẳng định những hành động đúng nên làm là có dụng ý gì? Khi phê phán hay khẳng định, tác giả tập trung vào vấn đề gì? Tại sao phải như vậy?

Sau khi nêu mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn phê phán những hành động sai của tướng sĩ, đồng thời khẳng định những hành động nên làm nhằm thức tỉnh sự tự ý thức, trách nhiệm, tự nhìn nhận lại mình để điều chỉnh suy nghĩ cũng như hành động của tướng sĩ.

Khi phê phán hay khẳng định, tác giả đều tập trung vào vấn đề đề cao tinh thần cảnh giác, chăm lo rèn luyện để chiến thắng kẻ thù xâm lược. Bởi vì, bài hịch này dù trực tiếp là nhằm khích lệ tiến sĩ học tập cuốn Binh thư yếu lược do chính Trần Quốc Tuấn biên soạn, nhưng mục đích cao nhất chính là kêu gọi tinh thần yêu nước quyết chiến quyết thắng với ngoại xâm.

Câu 5. Giọng văn là lời vị chủ soái nói với tướng sĩ dưới quyền hay là lời người cùng cảnh ngộ? Là lời khuyên răn bày tỏ thiệt hơn hay là lời nghiêm khắc cảnh cáo? Cách viết của tác giả có tác động tới tướng sĩ như thế nào?

Trong bài hịch, giọng văn lúc thì là của vị chủ soái với tướng sĩ dưới quyền lúc lại là của người cùng cảnh ngộ (suy cho cùng, chủ soái hay tướng sĩ khi đất nước lâm nguy thì đều cùng một cảnh ngộ):

– Khi muốn bày tỏ ân tình hay khuyên răn thiệt hơn, tác giả lấy giọng gần gũi, chân tình của người cùng chung cảnh ngộ để nói: “Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, (…) lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười.” , “Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc của các ngươi cũng mất; chẳng những gia quyến của ta bị tan, mà vợ con các ngươi cũng khốn; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị giày xéo, mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên…”

– Khi nghiêm khắc quở trách, cảnh cáo những hành động sai, thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm của tướng sĩ trước vận mệnh đất nước, tác giả thẳng thắn đưa ra những lời lẽ gay gắt, như là sỉ mắng: “không biết lo”, “không biết thẹn”, “không biết tức”, “không biết căm”… Thực ra, gia thần của ông như Dã Tượng, Yết Kiêu, các môn khách như Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực… đều là những người trung nghĩa. Trung nghĩa là nét nổi bật của tinh thần Đông A (tức nhà Trần). Cho nên, số người cầu an, hưởng lạc tuy vẫn có, nhưng có phần chắc là Trần Quốc Tuấn dùng phép khích tướng, kích họ bằng sỉ nhục, đẩy họ vào thế phải chứng tỏ tấm lòng biết lo, biết thẹn, biết tức, biết căm mà đồng lòng hiệp sức cùng chủ tướng đánh dẹp quân thù.“(Trần Đình Sử)

– Dù là khuyên răn bày tỏ thiệt hơn hay là lời nghiêm khắc cảnh cáo thì cũng đều nhằm khơi dậy ý thức về trách nhiệm, bổn phận của tướng sĩ đối với giang sơn xã tắc, đều hướng tới cái đích kêu gọi đồng tâm hiệp lực tiêu diệt quân xâm lược, đối phó với kẻ thù.

Câu 6. Hãy nêu một số đặc sắc nghệ thuật đã tạo nên sức thuyết phục người đọc bằng cả nhận thức và tình cảm ở bài Hịch tướng sĩ.

Một số đặc sắc nghệ thuật đã tạo nên sức thuyết phục cho bài hịch tướng sĩ.

– Thủ pháp so sánh – tương phản: đoạn 2,3

– Thủ pháp trùng điệp – tăng tiến; được sử dụng kết hợp với thủ pháp so sánh – tương phản, các điệp từ, điệp ngữ, điệp ý được sử dụng triệt để nhằm tạo ra âm hưởng cho bài hịch, đồng thời gợi, khắc sâu vào tâm trí người đọc (đoạn 3).

Câu 7*. Khích lệ nhiều mặt để tập trung vào một hướng, đó là cách triển khai lập luận của bài Hịch tướng sĩ. Hãy làm sáng tỏ điều này bằng một lược đồ về kết cấu của bài hịch.

Hịch tướng sĩ là một áng văn chính luận đặc sắc, với phong cách văn biền ngẫu có sức lay động lòng người.

Với kết cấu chặt chẽ, bài hịch cho thấy sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ với tình cảm, giữa lập luận với hình ảnh, dẫn chứng giàu sức thuyết phục.

Có thể thấy được cách triển khai lập luận của bài hịch qua lược đồ kết cấu sau:

III. LUYỆN TẬP

Câu 1. Phát biểu cảm nhận về lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn được thể hiện qua bài hịch.

Đọc bài hịch, ta có cảm tưởng như mỗi chữ, mỗi câu văn đều là những lời gan ruột của người anh hùng Trần Quốc Tuấn. Sau những câu văn hùng hồn, thấm đượm là hình ảnh người anh hùng yêu nước xót đau đến quặn lòng vì nước non bị quân thù giày xéo, là ngọn lửa căm thù hừng hực cháy trong tim, là sự nóng lòng rửa nhục đến quên ăn mất ngủ. Khi bày tỏ những đớn đau dằn vặt tự đáy lòng mình, chính Trần Quốc Tuấn đã nêu ra một tấm gương bất khuất về lòng yêu nước để cho tướng sĩ noi theo. Và như thế cũng có nghĩa là nó có sức động viên rất lớn đối với tinh thần tướng sĩ.

Tham khảo đoạn văn:

“…Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn trong Hịch tướng sĩ là nỗi lo cho dân cho nước; là tầm nhìn chiến lược để có một kế sách vẹn toàn cho cuộc khởi binh. Tình cảm thiết tha với dân với nước ấy được vị tướng quân viết lên bằng cả nỗi lòng mình; viết lên từ những trăn trở lo âu băng qua những “bữa quên ăn”, những “đêm vỗ gối”, những lần “ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Tình yêu của tác giả hiện hữu mạnh mẽ theo đúng kiểu lính nhà binh “chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù”. Làm xong điều ấy thì “dẫu trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng”. Yêu nước với Trần Quốc Tuấn trong thời điểm ấy nghĩa là phải biết lo cho dân cho nước, phải biết xả thân, biết đoàn kết một lòng. Tất cả những điều đó nảy sinh từ một động lực, một mục đích lớn lao: yêu nước, tiêu diệt giặc thù…”

(Ngô Tuần)

Câu 2*. Chứng minh bài Hịch tướng sĩ vừa có lập luận chặt chẽ, sắc bén vừa giàu hình tượng, cảm xúc, do đó có sức thuyết phục cao.

Tham khảo đoạn văn sau.

“…Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đặc biệt sắc sảo trong lời văn và hiệu quả ở giọng điệu. Tác giả mở đầu tác phẩm không hề rào đón mà trực tiếp nêu cao khí tiết của những người anh hùng trong lịch sử. Đặt vấn đề theo cách này, Hưng Đạo Vương đã ngay lập tức khơi đúng vào cái mạch truyền thống của “con nhà võ tướng” – đó là cái thể hiện và sự xả thân. Lời lẽ hùng hồn khiến binh lính đều phải tự nhìn lại chính mình, xem mình đã làm được gì cho dân, cho nước. Trong trình bày luận điểm, chúng ta dễ dàng nhận thấy, Trần Quốc Tuấn luôn gắn liền quyền lợi và nghĩa vụ của mình với dân với nước, đặt ngang hàng quyền lợi của mình với muôn ngàn tướng sĩ. Binh lính vì thế mà vừa tin tưởng, vừa nể phục vị đại tướng quân. Và như vậy cũng có nghĩa là tướng sĩ trên dưới một lòng.

Sự khéo léo của Trần Quốc Tuấn trong lập luận còn nằm ở chỗ, tác giả xen kết hài hoà giữa phê phán và khích lệ, kiểm điểm với động viên. Điều cốt yếu nhất mà Đại vương đã làm được đó là khơi vào nỗi nhục của bản thân và quốc thể từ đó mà thắp lên sự căm hờn trong mỗi người: “Chẳng những gia quyến của ta bị tan mà vợ con các ngươi cũng khốn, chẳng những tổ tông ta bị giày xéo, mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên”. Câu văn khơi gợi vô cùng bởi chẳng ai là không căm uất, không muốn đứng lên tiêu diệt những kẻ dã tâm giày xéo, chà đạp dã man lên quê hương, đất nước, gia đình mình.

Lời hịch của Trần Quốc Tuấn cứ thế thắt mở lôi cuốn quân sĩ vào cuộc chiến. Cứ thế tạo cho họ một tâm thế, một khí thế sục sôi sẵn sàng tuân theo thượng lệnh mà ra trận. Tuy nhiên sự thuyết phục của Hịch tướng sĩ còn ở giọng điệu hùng hồn, ở những hình ảnh và những câu văn giàu cảm xúc. Thử hỏi có ai không thấy nhục khi “ngó thấy sứ giả đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tế phụ…”. Câu văn rất giàu hình ảnh và cảm xúc. Lối ví von hình tượng dấy lên lòng tự ái, tự tôn dân tộc trong lòng mỗi con người.

Hoặc có lúc tự viết về mình, câu văn của Đại vương cũng rất giàu hình ảnh và đầy tâm sự “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa…”. Một câu văn mà xen chồng liên tiếp nhiều vị ngữ. Tất cả đều vừa giàu hình ảnh lại vừa tràn trề cảm xúc. Nó hừng hực sôi trào và căm giận xiết bao. Hịch tướng sĩ còn rất nhiều câu văn giàu hình ảnh. Nó cộm lại rồi cuộn lên có lúc như dòng thác. Hơi văn như hơi thở mạnh hừng hực khí thế khiến người đọc liên tục bị cuốn theo và rồi bị thuyết phục không biết tự lúc nào…”


Bài soạn “Hịch tướng sĩ” số 2

Bài soạn “Hịch tướng sĩ” số 3

I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Trần Quốc Tuấn (1231 -1300), tước Hưng Đạo Vương, là một danh tướng kiệt xuất của dân tộc.

2. Hịch là một thể văn thư cổ mà các tướng lĩnh, vua chúa hoặc thủ lĩnh một tổ chức, một phong trào dùng để kêu gọi cổ vũ mọi người hăng hái chiến đấu tiêu diệt kẻ thù.

Một bài hịch thường được cấu trúc theo ba phần chính :

– Phần đầu : Nêu lên một nguyên lí đạo đức hay chính trị làm cơ sở tư tưởng, lí luận.

– Phần giữa : Nêu thực trạng đáng chú ý (thường là kể tội kẻ thù).

– Phần cuối: Nêu giải pháp và lời kêu gọi chiến đấu.

3. Hịch tướng sĩ thể hiện tinh thần yêu nước sâu sắc của vị tướng Trần Quốc Tuấn, cũng là của nhân dân ta. Tinh thần ấy được chứng tỏ qua lòng căm thù cao độ, ý chí quyết chiến, quyết thắng quật cường trước giặc ngoại xâm.

Hịch tướng sĩ là một áng văn chính luận đặc sắc, với phong cách văn biền ngẫu có sức lay động lòng người. Với kết cấu chặt chẽ, bài hịch cho thấy sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ với tình cảm, giữa lập luận với hình ảnh, dẫn chứng giàu sức thuyết phục.

II – HƯỚNG DẪN ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

Câu 1. Bố cục của toàn bài:

– Đoạn 1 (từ đầu đến “đến nay còn lưu tiếng tốt”) : Tác giả nêu ra các gương “trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước” đã được lưu truyền trong sử sách để khích lệ lòng người.

– Đoạn 2 (từ “Huống chi ta” đến “ta cũng vui lòng”) : Từ việc phơi bày bộ mặt xấu xa của sứ giặc, tác giả bày tỏ lòng căm thù giặc sâu sắc.

– Đoạn 3 (từ “Các ngươi ở cùng ta” đến “không muốn vui vẻ phỏng có được không ?”) : Từ khắc sâu mối gắn bó ân tình giữa chủ và tướng, tác giả phân tích rõ thiệt hơn, được mất, đúng sai để chân chỉnh những sai lạc trong hàng ngũ tướng sĩ (từ “Các ngươi” đến “muốn vui vẻ phỏng có được không ?”) và đi đến việc vạch ra đường hướng hành động đúng, hứa hẹn tương lai (từ “Nay ta bảo thật” đến “không muốn vui vẻ phỏng có được không ?”).

– Đoạn 4 (từ “Nay ta chọn binh pháp” đến hết) : Nêu ra việc trước mắt phải làm và kết thúc bằng những lời khích lệ nghĩa khí tướng sĩ.

Câu 2. Tác giả lột tả sự ngang ngược và tội ác của giặc :

– Bộ mặt của quân giặc được phơi bày bằng những sự việc trong thực tế : đi lại nghênh ngang, sỉ mắng triều đình, bắt nạt tể phụ, đòi ngọc lụa, thu vàng bạc, vét của kho có hạn…

– Để lột tả sự ngang ngược và tội ác tham tàn của giặc, đồng thời bày tỏ thái độ căm thù, khinh bỉ cực độ, tác giả đã dùng lối nói hình ảnh so sánh, ẩn dụ :

+ Hình ảnh chỉ quân giặc : lưỡi cú diều, thân dê chó, hổ đói.

+ Các hình ảnh được đặt trong thế đôi sánh để tỏ rõ thái độ căm thù, khinh bỉ : uốn lưỡi cú diều – sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó – bắt nạt tể phụ.Tố cáo tội ác của giặc, tác giả đã khơi gợi lòng tự trọng dân tộc, khắc sâu lòng căm thù ngoại xâm ở tướng sĩ.

Câu 3. Sau khi tố cáo tội ác của giặc, Trần Quốc Tuấn đã bày tỏ lòng yêu nước, căm thù giặc của mình. Có thể xem đây là đoạn văn hay nhất của bài hịch :

– Nỗi đau trước cảnh nước mất nhà tan được diễn tả thống thiết : quên ăn, mất ngủ, lòng đau như dao cắt, nước mắt đầm đìa. Uất hận trào dâng đến cực điểm khi tác giả bộc lộ thái độ của mình đốì với kẻ thù : chỉ căm tức chưa được xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù.

– Vị tướng đã tự xác định một tinh thần hi sinh hết mình cho đất nước : Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.

Câu 4. Sau khi nêu mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn phê phán những hành động sai của tướng sĩ, đồng thời khẳng định những hành động nên làm nhằm thức tỉnh sự tự ý thức, trách nhiệm, tự nhìn nhận lại mình để điều chỉnh suy nghĩ cũng như hành động của tướng sĩ.

Khi phê phán hay khẳng định, tác giả đều tập trung vào vân đề đề cao tinh thần cảnh giác, chăm lo rèn luyện để chiến thắng kẻ thù xâm lược. Bởi vì, bài hịch này dù trực tiếp là nhằm khích lệ tướng sĩ học tập cuốn Binh thư yếu lược do chính Trần Quốc Tuấn biên soạn, nhưng mục đích cao nhất là kêu gọi tinh thần yêu nước, quyết chiến quyết thắng với ngoại xâm.

Câu 5. Giọng văn lúc thì là của vị chủ soái với tướng sĩ dưới quyền, lúc lại là của người cùng cảnh ngộ (suy cho cùng, chủ soái hay tướng sĩ khi đất nước lâm nguy thì đều cùng một cảnh ngộ) :

– Khi muốn bày tỏ ân tình hay khuyên răn thiệt hơn, tác giả lấy giọng gần gũi, chân tình của người cùng chung cảnh ngộ để nói : “Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, […] lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười.”, “Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào ! Chẳng những thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc của các ngươi cũng mất; chẳng những gia quyến của ta bị tan, mà vợ con các ngươi cũng khốn ; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị giày xéo, mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên…”.

– Khi nghiêm khắc quở trách, cảnh cáo những hành động sai, thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm của tướng sĩ trước vận mệnh đất nước, tác giả thẳng thắn đưa ra những lời lẽ gay gắt, như là sỉ mắng : “không biết lo”, “không biết thẹn”, “không biết tức”, “không biết căm”… Thực ra, “gia thần của ông như Dã Tượng, Yết Kiêu, các môn khách như Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực,… đều là những người trung nghĩa. Trung nghĩa là nét nổi bật của tinh thần Đông A. Cho nên, số người cầu an, hưởng lạc tuy vẫn có, nhưng có phần chắc là Trần Quốc Tuấn dùng phép khích tướng, kích họ bằng sỉ nhục, đẩy họ vào thế phải chứng tỏ tấm lòng biết lo, biết thẹn, biết tức, biết căm mà đồng lòng hiệp sức cùng chủ tướng đánh dẹp quân thù.” (Trần Đình Sử)

– Dù là khuyên răn bày tỏ thiệt hơn hay là lời nghiêm khắc cảnh cáo thì cũng đều nhằm khơi dậy ý thức về trách nhiệm, bổn phận của tướng sĩ đốì với giang sơn xã tắc, đều hướng tới cái đích kêu gọi đồng tâm hiệp lực tiêu diệt quân xâm lược, đối phó với kẻ thù.

Câu 6. Một số đặc sắc nghệ thuật đã tạo nên sức thuyết phục cho bài Hịch tướng sĩ :

– Thủ pháp so sánh – tương phản : đoạn 2, 3.

– Thủ pháp hùng điệp – tăng tiến được sử dung kết hợp với thủ pháp so sánh – tương phản, các điệp từ, điệp ngữ, điệp ý được sử dụng triệt để nhằm tạo ra âm hưởng cho bài hịch, đồng thời gợi, khắc sâu vào tâm trí người đọc (chú ý đoạn 3).

Câu 7. Khích lệ nhiều mặt để tập trung vào một hướng, đó là cách triển khai lập luận của bài Hịch tướng sĩ. Có thể hình dung sự triển khai lập luận này qua lược đồ sau :

Khích lệ tinh thần yêu nước, ý thức chống giặc ngoại xâm

  • Khích lệ lòng căm thù chống ngoại xâm, nỗi nhục khi mất nước
  • Khích lệ tinh thần trung quân ái quốc và ý thức trách nhiệm với xã tắc.
  • Khích lệ ý chi nam nhi, lập công danh, vì đất nước cũng là vì bản thân mình
  • Khích lệ lòng tự tôn dân tộc, lòng tự trọng cá nhân.


Bài soạn “Hịch tướng sĩ” số 3

Bài soạn “Hịch tướng sĩ” số 4

A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM

Trần Quốc Tuấn: (1231?-1300) tước Hưng Đạo Vương là một danh tướng kiệt xuất của dân tộc.Năm 1285, 1287 quân Mông – Nguyên xâm lược nước ta ông được cử làm Tiết chế thống lĩnh các đạo quân, cả hai lần kháng chiến đều thắng lợi vẻ vang.
Sau khi ông mất, nhân dân tôn ông là Đức thánh Trần và lập đền thờ ở nhiều nơi trên đất nước.

Hịch là thể văn nghị luận thời xưa, thường được vua chúa, tướng lĩnh hoặc thủ lĩnh một phong trào dùng để cổ động, thuyết phục hoặc kêu gọi đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài.
Hịch có kết cấu chặt chẽ, có lĩ lẽ sắc bén, có dẫn chứng thuyết phục. Đặc điểm nổi bật đó là khích lệ tình cảm, tinh thần người nghe.

Thường được viết theo kiểu văn biền ngẫu, kết cấu thay đổi linh hoạt tùy theo mục đích và nghệ thuật lập luận của tác giả.

Hịch tướng sĩ viết vào khoảng trước cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên lần thứ hai (1285). Ở bài hịch này, tác giả không nêu phần đặt vấn đề riêng vì toàn bộ bài hịch là nêu vấn đề và giải quyết vấn đề.
Bài Hịch này được làm để khích lệ tinh thần tướng sĩ học tập Binh thư yếu lược do chính Trần Quốc Tuấn soạn thảo.

B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI

Câu 1: Trang 61 sgk ngữ văn 8 tập 2

Bài hịch có thể chia làm mấy đoạn? Nêu ý chính của từng đoạn.

Bài làm:Bài hịch có thể chia thành 4 đoạn:Đoạn 1 (từ đầu đến “đến nay còn lưu tiếng tốt.”): tác giả nêu ra các gương “trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước” đã được lưu truyền trong sử sách để khích lệ lòng người.Đoạn 2 (từ “Huống chi ta” đến “ta cũng vui lòng.”): từ việc phơi bày bộ mặt xấu xa của sứ giặc, tác giả bày tỏ lòng căm thù giặc sâu sắc.Đoạn 3 (từ “Các ngươi ở cùng ta” đến “không muốn vui vẻ phỏng có được không ?”): từ khắc sâu mối gắn bó ân tình giữa chủ và tướng, tác giả phân tích rõ thiệt hơn, được mất, đúng sai để chấn chỉnh những sai lạc trong hàng ngũ tướng sĩ và đi đến việc vạch ra đường hướng hành động đúng, hứa hẹn tương lai.Đoạn 4 (từ “Nay ta chọn binh pháp” đến hết): nêu ra việc trước mắt phải làm và kết thúc bằng những lời khích lệ nghĩa khí tướng sĩ.Câu 2: Trang 61 sgk ngữ văn 8 tập 2Sự ngang ngược và tội ác của giặc được lột tả như thế nào? Đoạn văn tố cáo tội ác giặc đã khơi gợi được điều gì ở tướng sĩ?ài làm:Sự ngang ngược và tội ác của giặc được lột tả như sau:Những hành động thể hiện sự tham lam tàn bạo: đòi ngọc lụa, hạch sách bạc vàng, vét kiệt của kho có hạn, hung hãn như hổ đói, ngang ngược đi lại nghênh ngang ngoài đường, bắt nạt tể phụ.Những hình ảnh ẩn dụ “lưỡi cú diều”, “thân dê chó” để chỉ sứ Nguyên cho thấy nỗi căm giận và lòng khinh bỉ giặc của Hưng Đạo Vương.Đoạn văn tố cáo tội ác giặc đã khơi gợi được: lòng căm thù giặc, khích lệ tinh thần yêu nước bất khuất, ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của tướng sĩ.Câu 3: Trang 61 sgk ngữ văn 8 tập 2Phân tích lòng yêu nước, căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn qua đoạn văn tác giả tự nói lên nỗi lòng mình.Bài làm:Lòng yêu nước căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn trước hết thể hiện qua những hành động và thái độ của ôngHành động: “tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Đó là những hành động diễn ra thường xuyên, theo mức độ tăng tiến dần: từ không ăn, đến không ngủ, đến ruột đau như cắt cuối cùng là nước mắt rơi đầm đìa.Thái độ: uất ức, căm tức khi chưa trả thù, sẵn sàng hy sinh để rửa mối nhục cho đất nước. Những câu văn biền ngẫu và những động từ mạnh liên tiếp được sử dụng chỉ trong một đoạn văn ngắn “chưa xả được thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù”.
=> Những câu văn biền ngẫu, dài với những vế câu ngắn tạo thành nhịp điệu hối hả, gấp gáp cũng đồng thời thể hiện sự căm thù giặc đến tận xương tủy, sự phẫn uất đến nghẹn lòng và lòng yêu nước sâu sắc của vị chủ tưởng khi chứng kiến cảnh tượng giặc ngoại xâm giày xéo lên mảnh đất cha ông, nhân dân ta chịu nhiều khổ nhục.

Đặc biệt thể giả thể hiện quyết tâm của mình bằng câu văn: “Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Câu nói giống như một lời thề đầy sức mạnh của người chủ tướng. Cũng vì thế mà khơi dậy được ý chí chiến đấu của binh sĩ dưới trướng của mình.

Câu 4: Trang 61 sgk ngữ văn 8 tập 2Sau khi nêu mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn phê phán những hành động sai trái của tướng sĩ, đồng thời khẳng định những hành động đúng nên làm là có dụng ý gì? Khi phê phán hay khẳng định, tác giả tập trung vào vấn đề gì? Tại sao phải như vậy?Bài làm:Sau khi nêu mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn phê phán những hành động sai trái đồng thời khẳng định những hành động đúng của tướng sĩ:
a) Những hành động sai trái

Nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹnLàm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không thấy tức, nghe nhạc thái thường để đãi yến mà không thấy cămHoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển, hoặc vui thú vườn ruộng, hoặc quyến luyến vợ con,Hoặc lo làm giàu mà quên việc nước, hoặc ham săn bắn mà quên việc binhHoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hátb) Những hành động đúng nên làmNên nhớ câu “đặt mồi lửa vào dưới đống củi” là nguy cơ, nên lấy điều “kiềng canh nóng mà thổi rau nguội” là răn sợ.Huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên; khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ, có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Cao Vương ở Cao NhaiTác giả liệt kê những hành động sai trái của tướng sĩ là có dụng ý: phê phán và thức tỉnh sự tự ý thức, trách nhiệm, tự nhìn nhận lại mình để điều chỉnh suy nghĩ cũng như hành động của tướng sĩ.Khi phê phán hay khẳng định, tác giả tập trung vào vấn đề: đề cao tinh thần cảnh giác, chăm lo rèn luyện để chiến thắng kẻ thù xâm lược, để khi giặc tấn công bất ngờ ta cũng không ở thế bị động mà luôn chủ động, sẵn sàng chiến đấu trong bất kì hoàn cảnh nào.
Tác giả tập trung vào việc đề cao tinh thần cảnh giác bởi vì: bài hịch này dù trực tiếp là nhằm khích lệ tiến sĩ học tập cuốn Binh thư yếu lược do chính Trần Quốc Tuấn biên soạn, nhưng mục đích cao nhất chính là kêu gọi tinh thần yêu nước quyết chiến quyết thắng với ngoại xâm.

Câu 5: Trang 61 sgk ngữ văn 8 tập 2Giọng văn là lời vị chủ soái nói với tướng sĩ dưới quyền hay là lời người cùng cảnh ngộ? Là lời khuyên răn bày tỏ thiệt hơn hay là lời nghiêm khắc cảnh cáo? Cách viết của tác giả có tác động tới tướng sĩ như thế nào?Bài làm:Giọng văn được tác giả biến đổi rất linh hoạt, có khi là lời vị chủ soái nói với tướng sĩ dưới quyền, có khi là lời người cùng ảnh, lúc là lời khuyên răn bày tỏ thiệt hơn, khi lại là lời nghiêm khắc cảnh cáo.Việc thay đổi giọng điệu một cách linh hoạt trong bài hịch của tác giả có tác động mạnh mẽ tới tới tướng sĩ:Sự thay đổi giọng điệu như vậy phù hợp với nội dung cảm xúc và thái độ của tác giả, rất phù hợp với đặc trưng của một bài hịch, một bài phủ dụ binh línhSự biến đổi trong giọng điệu khiến cho người tướng lĩnh không còn đứng ở vị trí của người có quyền lực cao hơn mà dường như thấu hiểu, đặt mình ở vị trí của binh lính, nó không còn là lời răn dạy một cách khuôn mẫu, khô khan mà trái lại giống như lời bày tỏ thân tình giữa những người bạn, người thân. Nhưng không vì thế mà làm mất đi uy nghiêm của vị chủ tướng mà nó còn nâng cao hơn vị thế của con người ấy.
Không chỉ thế, nó còn tác động cả về trí lẫn tình cảm, khơi dậy trách nhiệm của mọi người đối với đất nước, với vị chủ tưởng và với cả bản thân họ cũng như gia đình của họ nữa.

Câu 6: Trang 61 sgk ngữ văn 8 tập 2Hãy nêu một số đặc sắc nghệ thuật đã tạo nên sức thuyết phục người đọc bằng cả nhận thức và tình cảm ở bài Hịch tướng sĩ.Bài làm:
Những đặc sắc nghệ thuật đã tạo nên sức thuyết phục người đọc bằng cả nhận thức và tình cảm ở bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn:

Câu 7: Trang 61 sgk ngữ văn 8 tập 2

Khích lệ nhiều mặt để tập trung vào một hướng, đó là cách triển khai lập luận của bài Hịch tướng sĩ. Hãy làm sáng tỏ điều này bằng một lược đồ về kết cấu của bài hịch.

Bài làm:Khích lệ lòng căm thù giặc giặc, mối hận của kẻ bị cướp nướcKhích lệ tinh thần ái nước, tình cảm của những người cùng cảnh ngộ.Khích lệ tinh thần lập công và ý chí xả thân vì nước của binh lính.Khích lệ tinh thần cá nhân trước vận mệnh của quốc gia, dân tộc.
Để cuối cùng: Khích lệ tinh thần yêu nước và quyết tâm kháng chiến thắng lợi.

Luyện tập

Bài tập 1: Trang 62 sgk ngữ ngữ 8 tập 2
Phát biểu cảm nhận về lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn được thể hiện qua bài hịch

Bài làm:
Lòng yêu nước là tình cảm thiêng liêng và vô giá của con người. Nhờ thứ tình cảm ấy mà nhân dân ta đã trải qua biết bao sóng gió, thăng trầm, đã từng phải đối mặt với những kẻ thù mạnh nhất thế giới nhưng nhân dân ta chưa bao giờ nao núng. Tấm lòng yêu nước của vị chủ tướng Trần Quốc Tuấn cũng được thể hiện thật cảm động qua bài Hịch tướng sĩ.

Hịch tướng sĩ được Trần Quốc Tuấn viết vào khoảng trước cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên lần thứ hai (1285). Bài hịch là lời kêu gọi ý chí chiến đấu và sự thức tỉnh của tướng lĩnh và binh sĩ trước những hành động ngang ngược, bạo tàn của kẻ thù. Qua đó cũng thể hiện tình yêu nước nồng nàn và lòng căm thù giặc sâu sắc cùng ý chí chiến đấu quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược của Trần Quốc Tuấn.

Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn được thể hiện trước hết qua lời giãi bày tấm lòng mình với những binh sĩ:”Ta thường đến bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Đó là những hành động diễn ra thường xuyên, theo mức độ tăng tiến dần: từ không ăn, đến không ngủ, đến ruột đau như cắt cuối cùng là nước mắt rơi đầm đìa. cùng với đó là một thái độ uất ức, căm tức khi chưa trả thù, sẵn sàng hy sinh để rửa mối nhục cho đất nước. Những câu văn biền ngẫu và những động từ mạnh liên tiếp được sử dụng chỉ trong một đoạn văn ngắn “chưa xả được thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù”. Những câu văn biền ngẫu, dài với những vế câu ngắn tạo thành nhịp điệu hối hả, gấp gáp cũng đồng thời thể hiện sự căm thù giặc đến tận xương tủy, sự phẫn uất đến nghẹn lòng và lòng yêu nước sâu sắc của vị chủ tưởng khi chứng kiến cảnh tượng giặc ngoại xâm giày xéo lên mảnh đất cha ông, nhân dân ta chịu nhiều khổ nhục.

Đặc biệt thể giả thể hiện quyết tâm của mình bằng câu văn: “Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Câu nói giống như một lời thề đầy sức mạnh của người chủ tướng. Cũng vì thế mà khơi dậy được ý chí chiến đấu của binh sĩ dưới trướng của mình. Lời thề ấy cũng trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động của Trần Quốc Tuấn. Tất cả những gì ông làm, ông khao khát chỉ vì một mục đích duy nhất là đất nước được tự do, độc lập, nhân dân no ấm, hạnh phúc và được hưởng một cuộc sống bình yên.

Không chỉ vậy, lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn còn được thể hiện qua việc ông nhìn rõ được những việc làm sai trái của binh lính, khi họ ngủ quên trong chiến thắng quá lâu mà lơ là mất cảnh giác và những việc họ cần làm và nên làm. Tác giả liệt kê những hành động sai trái của tướng sĩ nhằm phê phán và thức tỉnh sự tự ý thức, trách nhiệm, tự nhìn nhận lại mình để điều chỉnh suy nghĩ cũng như hành động của tướng sĩ. Khi phê phán hay khẳng định, tác giả tập trung vào việc đề cao tinh thần cảnh giác, chăm lo rèn luyện để chiến thắng kẻ thù xâm lược, để khi giặc tấn công bất ngờ ta cũng không ở thế bị động mà luôn chủ động, sẵn sàng chiến đấu trong bất kì hoàn cảnh nào. Tác giả tập trung vào việc đề cao tinh thần cảnh giác bởi vì bài hịch này dù trực tiếp là nhằm khích lệ tiến sĩ học tập cuốn Binh thư yếu lược do chính Trần Quốc Tuấn biên soạn, nhưng mục đích cao nhất chính là kêu gọi tinh thần yêu nước quyết chiến quyết thắng với ngoại xâm.

Như vậy, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn không chỉ là lời phủ dụ kêu gọi sự thức tỉnh tinh thần chiến đấu của binh sĩ, đề cao tinh thần cảnh giác chứ không được ngủ quên trong chiến thắng mà còn thể hiện được tấm lòng yêu nước nồng nàn của ông.

Bài tập 2: Trang 61 sgk Ngữ Văn 8 tập 2
Chứng minh bài Hịch tướng sĩ vừa có lập luận chặt chẽ, sắc bén vừa giàu hình tượng, cảm xúc, do đó có sức thuyết phục cao.

Bài làm:
Bài Hịch tướng sĩ vừa có lập luận chặt chẽ, sắc bén vừa giàu hình tượng, cảm xúc, do đó có sức thuyết phục cao:

Lập luận chặt chẽ: Khẳng định việc làm sai trái dẫn đến hậu quả tai hại thông qua những lời phê phán mạnh mẽ đượ đưa ra mộ cách dồn dập :”“Nếu có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trông không thề đâm thùng áo giáp giặc, mẹo cờ hạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh ; dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều, tấm thân quý ngàn vàng khôn chuộc, vả lại vợ bìu con díu, việc quân cơ trăm sự ích chi ; tiền của tuy nhiều khôn mua được dầu giặc, chó săn tuy khỏe không đuổi được quân thù ; chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai. Lúc bấy giờ ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, dau xót biết chừng nào “Lập luận giàu hình tượng, cảm xúc, có sức thuyết phục cao:Những hình tượng án dụ sinh động, gợi cảm :” uốn lưỡi cú diều, thân dê chó…”;Hình tượng so sánh, cụ thể : “người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ”; “có thể bêu dầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rửa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai…”Những hình ảnh dễ hiểu : cựa gà trống, áo giáp, mẹo ***…
=> Bài hịch tướng sĩ được viết bằng cả tâm huyết của tác giả với cảm xúc tuôn trào, lời văn thống thiết, có sức lôi cuốn mạnh mẽ. Chính vì thế bài Hịch trở thành một sức mạnh tinh thần góp phần khích lệ tinh thần chiến sĩ, đóng góp vào thắng lợi vẻ vang của dân tộc


Bài soạn “Hịch tướng sĩ” số 4

Bài soạn “Hịch tướng sĩ” số 5

Trả lời câu 1 (trang 61, SGK Ngữ văn 8, tập 2)

Bố cục:

– Đoạn 1 (từ đầu đến “còn lưu tiếng tốt”): Nêu những gương trung thần nghĩa sĩ trong sử sách để khích lệ ý chí lập công danh, xả thân vì nước.

– Đoạn 2 (từ “Huống chi” đến “cũng vui lòng”): Tố cáo sự hống hách và tội ác của kẻ thù, đồng thời nói lên lòng căm thù giặc.

– Đoạn 3 (từ “Các ngươi” đến “không muốn vui vẻ phỏng có được không?”): Phân tích phải trái, làm rõ đúng sai trong lối sống, trong hành động của các tướng sĩ.

– Đoạn 4 (đoạn còn lại): Nêu nhiệm vụ cụ thể, cấp bách, khích lộ tinh thần chiến đấu của tướng sĩ.

Trả lời câu 2 (trang 61, SGK Ngữ văn 8, tập 2)

Tội ác và sự ngang ngược của kẻ thù:

– Kẻ thù tham lam tàn bạo

– Những hình tượng ẩn dụ “lưỡi cú diều”, “thân dê chó” để chỉ sứ Nguyên cho thấy nỗi căm giận và lòng khinh bỉ giặc của Hưng Đạo Vương.Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra nỗi nhục lớn của mọi người khi chủ quyền đất nước bị xâm phạm.

Trả lời câu 3 (trang 61, SGK Ngữ văn 8, tập 2)

Lòng yêu nước căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn thể hiện qua:

+ Hành động: quên ăn, mất ngủ, đau đớn đến thắt tim, thắt ruột.

+ Thái độ: uất ức, căm tức khi chưa trả thù, sẵn sàng hy sinh để rửa mối nhục cho đất nước.

Trả lời câu 4 (trang 61, SGK Ngữ văn 8, tập 2)

Sau khi nêu mới ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn phê phán những hành động sai của tướng sĩ, đồng thời khẳng định những hành động nên làm nhằm thức tỉnh sự tự ý thức, trách nhiệm, tự nhìn nhận lại mình để điều chỉnh suy nghĩ cũng như hành động của tướng sĩ.

Trả lời câu 5 (trang 61, SGK Ngữ văn 8, tập 2)

Giọng văn rất linh hoạt, có khi là lời vị chủ soái nói với tướng sĩ dưới quyền, có khi là lời người cùng ảnh, lúc là lời khuyên răn bày tỏ thiệt hơn, khi lại là lời nghiêm khắc cảnh cáo.

Trả lời câu 6 (trang 61, SGK Ngữ văn 8, tập 2)

Đặc sắc nghệ thuật:

– Giọng văn khi bi thiết nghẹ ngào, lúc sục sôi hùng hồn, khi mỉa mai chế giễu, khi nghiêm khắc như xỉ mắng, lại có lúc ra lệnh dứt khoát.

– Kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén.

– Sử dụng kiểu câu nguyên nhân – kết quả.

– Biện pháp tu từ: so sánh, điệp từ ngữ, điệp ý tăng tiến, phóng đại …

– Sử dụng những hình tượng nghệ thuật gợi cảm, dễ hiểu.

Trả lời câu 7 (trang 61, SGK Ngữ văn 8, tập 2)

  • Khích lệ lòng căm thù chống ngoại xâm, nỗi nhục khi mất nước
  • Khích lệ tinh thần trung quân ái quốc và ý thức trách nhiệm với xã tắc.
  • Khích lệ ý chi nam nhi, lập công danh, vì đất nước cũng là vì bản thân mình
  • Khích lệ lòng tự tôn dân tộc, lòng tự trọng cá nhân.

Câu 1 (trang 61, SGK Ngữ văn 8, tập 2).

Phát biểu cảm nhận về lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn được thể hiện qua bài hịch.

“…Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn trong Hịch tướng sĩ là nỗi lo cho dân cho nước; là tầm nhìn chiến lược để có một kế sách vẹn toàn cho cuộc khởi binh. Tình cảm thiết tha với dân với nước ấy được vị tướng quân viết lên bằng cả nỗi lòng mình; viết lên từ những trăn trở lo âu băng qua những “bữa quên ăn”, những “đêm vỗ gối”, những lần “ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Tình yêu của tác giả hiện hữu mạnh mẽ theo đúng kiểu lính nhà binh “chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù”. Làm xong điều ấy thì “dẫu trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng”.

Yêu nước với Trần Quốc Tuấn trong thời điểm ấy nghĩa là phải biết lo cho dân cho nước, phải biết xả thân, biết đoàn kết một lòng. Tất cả những điều đó nảy sinh từ một động lực, một mục đích lớn lao: yêu nước, tiêu diệt giặc thù…”

Câu 2* (trang 61, SGK Ngữ văn 8, tập 2).

Chứng minh bài Hịch tướng sĩ vừa có lập luận chặt chẽ, sắc bén vừa giàu hình tượng, cảm xúc, do đó có sức thuyết phục cao.

Tóm tắt

Hịch tướng sĩ là một áng văn chính luận xuất sắc nhằm kêu gọi, khích lệ tinh thần yêu nước, lòng tự tôn, tự trọng và ý chí chống giặc ngoại xâm của các tướng sĩ. Mở đầu bài hịch, Trần Quốc Tuấn nêu những gương trung thần nghĩa sĩ trong sử sách. Tiếp theo Ngài tố cáo sự hống hách và tội ác của kẻ thù để khơi dậy lòng căm thù giặc của tướng sĩ. Ngài còn nói lên mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ đồng thời Ngài phân tích phải trái, đúng sai, định hướng hàng ngũ quân sĩ và khẳng định những hành động nên làm.

ND chính

Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta trong cuộc chiến chống ngoại xâm, thể hiện lòng căm thù giặc, ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược.


Bài soạn “Hịch tướng sĩ” số 5

Bài soạn “Hịch tướng sĩ” số 6

Chia làm 4 phần:

– Phần 1 ( từ đầu … còn lưu tiếng tốt): Nguyên lý đạo đức hay chính trị làm cơ sở tư tưởng.

– Phần 2 ( tiếp…ta cũng vui lòng): Nêu thực trạng đất nước đang bị giặc ngoại xâm.

– Phần 3 (Các người ở cùng ta…không muốn vui vẻ phỏng có được không?): Nêu giải pháp .

– Phần 4 (còn lại) Lời hiệu dụ, kêu gọi tướng sĩ.

Câu 1 (trang 61 sgk Ngữ văn 8 tập 2):

Bố cục của toàn văn bản Hịch tướng sĩ.

Chia là 4 phần:

+ Phần 1 (từ đầu … đến nay còn lưu tiếng tốt) Tác giả dẫn ra những gương trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước lưu truyền trong sử sách.

+ Phần 2( tiếp … ta cũng vui lòng) Bộc lộ sự căm phẫn trước sự hống hách của giặc.

+ Phần 3 ( tiếp … không muốn vui vẻ cùng ta có được không) Phân tích phải trái, đúng sai định hướng hàng ngũ quân sĩ.

+ Phần 4 (còn lại) Lời khích lệ, hiệu dụ tướng lĩnh.

Câu 2 ( trang 61 sgk Ngữ văn 8 tập 2) :

Tác giả vạch ra tội ác và sự hống hách, ngang ngược của giặc:

– Bộ mặt của giặc được phơi bày bằng những việc trong thực tế:

+ Đi lại nghênh ngang, sỉ mắng triều đình.

+ Bắt nạt tể phụ, đòi lụa ngọc, thu vàng bạc, vét của kho.

→ Lột tả bộ mặt ngang ngược, thói tham lam, sự độc ác của những quân giặc, đồng thời bày tỏ sự căm phẫn, thái độ khinh bỉ cực độ của tác giả.

– Sử dụng lối nói so sánh, ẩn dụ:

+ So sánh quân giặc với thân dê chó, lưỡi cú diều.

+ Hình ảnh được đặt trong thế đối sánh để tỏ rõ sự căm thù, khinh bỉ cực độ: uốn lưỡi cũ diều- sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó- bắt nạt tể phụ.

→ Tố cáo tội ác của giặc, tác giả đã khơi gợi lòng tự tôn, tự trọng dân tộc, khơi gợi lòng tướng sĩ thái độ căm phẫn trước kẻ thù và trách nhiệm với đất nước.

Câu 3( trang 61 sgk Ngữ Văn 8 tập 2):

Sau khi tố cáo tội ác của giặc, Trần Quốc Tuấn trực tiếp bày tỏ lòng yêu nước, căm thù giặc của mình.

– Nỗi đau nước mất nhà tan được diễn tả thống thiết:

+ Quên ăn, mất ngủ, lòng đau như dao cắt, nước mắt đầm đìa.

– Uất hận lên tới đỉnh điểm khi tác giả bộc lộ thái độ căm phẫn, muốn tiêu diệt kẻ thù:

+ Căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù.

– Vị tướng nguyện một lòng xả thân vì sự nghiệp bảo vệ đất nước:

+ Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, … ta cũng vui lòng.

→ Nổi bật hình tượng người anh hùng yêu nước, khảng khái, sẵn sàng xả thân vì nước. Dốc hết những lời gan ruột để lay động quân sĩ tình yêu nước, thái độ căm thù giặc.

Câu 4 (trang 61 sgk Ngữ Văn 8 tập 2):

Trần Quốc Tuấn phê phán hành động sai trái của tướng sĩ, đồng thời khẳng định những hành động đúng nên làm là có dụng ý:

+ Trần Quốc Tuấn nghiêm khắc phê phán thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm của tướng sĩ khi đất nước bị làm nhục.

+ Tập trung phê phán những thú vui tầm thường, hành động sai trái: thích rượu ngon, mê gái đẹp, ưa săn bắn.

+ Thức tỉnh sự tự ý thức, trách nhiệm, tự nhìn nhận

+ Chấn chỉnh suy nghĩ, hành động của tướng sĩ cho đúng đắn:

– Khi phê phán hoặc khẳng định tác giả đều tập trung vào vấn đề nêu cao tinh thần cảnh giác, chăm lo rèn luyện để chiến thắng kẻ thù xâm lược.

– Lời nói đanh thép như trách mắng tướng sĩ “không biết lo”, “không biết thẹn”, “không biết căm tức”.

→ Khi chỉ ra những điều sai trái nghĩa quân, tướng sĩ phạm để thức tỉnh ý thức tự tôn dân tộc, qua đó vạch ra hướng đi đúng đắn, quyết tâm tiêu diệt kẻ thù là mục đích cốt yếu.

Câu 5 (trang 61 sgk Ngữ văn 8 tập 2):

– Giọng văn linh hoạt:

+ Lúc của chủ tướng nói với tướng sĩ, binh lính.

+ Lúc là người cùng cảnh ngộ (suy cho cùng khi nước bị giặc xâm lược.

– Dùng giọng ân tình, gần gũi để khuyên răn thiệt hơn: “các ngươi ở cùng ta… lúc vui cười”.

– Giọng nghiêm khắc trách cứ, cảnh cáo những hành động sai lầm, thái độ thờ ơ, tác trách của quân sĩ khi đất nước lâm nguy.

– Thẳng thắn đưa ra những lời lẽ gay gắt để khích tướng, thức tỉnh quân sĩ: ” không biết lo”, ” không biết thẹn”.

→ Dù Trần Quốc Tuấn có sử dụng giọng ân cần khuyên răn hay giọng nghiêm nghị trách giận thì tất cả đều nhằm gợi lên ý thức, trách nhiệm của tướng sĩ với non sông, xã tắc., kêu gọi sự đồng tâm hiệp lực.

Câu 6 (trang 61 sgk Ngữ văn 8 tập 2) :

Đặc sắc nghệ thuật góp phần tạo nên sức thuyết phục cho văn bản: – Thủ pháp so sánh tương phản : Làm nổi bật hình ảnh đau thương người dân mất nước >< hình ảnh ngang ngược, tàn bạo của giặc Nguyên- Mông.

– Thủ pháp trùng điệp- tăng tiến được kết hợp với thủ pháp so sánh- tương phản nhằm tạo giọng điệu hùng hồn, trùng điệp, khắc vào tâm trí người đọc.

– Lập luận chặt chẽ, sắc bén với lời văn đanh thép.

– Sử dụng các biện pháp tu từ: so sánh, điệp từ, điệp ngữ, điệp ý…

– Linh hoạt trong cách sử dụng giọng điệu trong văn bản.

→ Nghệ thuật lập luận sắc bén, linh hoạt kết hợp với các thủ pháp tiêu biểu, lời lẽ khi tha thiết, khi nghiêm nghị nhằm tạo ra áng văn chính luận đanh thép, có sức thuyết phục cao.

Câu 7 ( trang 61 sgk Ngữ Văn 8 tập 2):

Lược đồ thể hiện cách triển khai lập luận: khích lệ nhiều mặt để tập trung vào một hướng

  • Khích lệ lòng căm thù chống ngoại xâm, nỗi nhục khi mất nước
  • Khích lệ tinh thần trung quân ái quốc và ý thức trách nhiệm với xã tắc.
  • Khích lệ ý chi nam nhi, lập công danh, vì đất nước cũng là vì bản thân mình
  • Khích lệ lòng tự tôn dân tộc, lòng tự trọng cá nhân.

Bài 1 ( trang 61 sgk Ngữ văn 8 tập 2)

Phát biểu về lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn được thể hiện qua bài hịch.

Hịch tướng sĩ là áng văn bất hủ mọi thời đại phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của vị tướng tài hết lòng vì dân tộc trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Lòng căm thù giặc thể hiện qua việc quên ăn, quên ngủ, “ruột đau như cắt” căm phẫn tội ác và sự hống hách của giặc Thanh. Nỗi đau mất nước được tác giả diễn tả thống thiết, cùng với niềm uất hận trào dâng khi tác giả bộc lộ sự căm phẫn của mình với kẻ thù. Vị tướng đã tự xác định tinh thần đấu tranh hi sinh, xả thân vì nước được khắc họa rõ nét. Những lời tâm huyết của Trần Quốc Tuấn cho thấy đây là vị tướng tài có sức lay động mạnh mẽ, truyền được lòng yêu nước nồng nàn, ý chí căm thù giặc sôi sục và một thái độ sẵn sàng hi sinh vì đất nước.

Bài 2 ( trang 61 sgk Ngữ văn 8 tập 2)

Hịch tướng sĩ có lập luận chặt chẽ, sắc bén, giàu hình tượng cảm xúc , do đó có sức thuyết phục cao.

Để khích lệ tinh thần yêu nước, quyết chiến thắng kẻ thù xâm lược được thể hiện thông qua các lập luận.

– Khích lệ lòng căm thù ngoại xâm, nỗi nhục của kẻ mất nước.

– Khích lệ tinh thần trung quân ái quốc, ý thức ân nghĩa thủy chung.

– Khích lệ ý chí lập công danh, vì đất nước cũng là vì chính mình.

– Khích lệ ý thức trách nhiệm, lòng tự trọng trước điều hơn lẽ thiệt.

→ Những lời tâm huyết, gan ruột của vị tướng có sức lay động mạnh mẽ, truyền cho tướng sĩ, đồng thời khẳng định tình yêu nước tha thiết.


Bài soạn “Hịch tướng sĩ” số 6

Bài văn phân tích tác phẩm “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn số 7

Trong nền văn học Việt Nam có những tác phẩm ra đời để rồi trở thành những áng văn bất hủ cùng thời đại, trải qua biết bao nhiêu sóng gió của thời gian nhưng vẫn vẹn nguyên giá trị đến tận ngày nay. Cùng với tác phẩm Nam Quốc Sơn Hà, Bình Ngô Đại Cáo, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn cũng là một tác phẩm, một áng văn bất hủ để đời. Vậy điều gì đã làm nên sức sống ấy?

Hịch tướng sĩ là một áng văn nghị luận cổ của văn học trung đại Việt Nam, được viết vào giữa thế kỷ XIII, trước cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên lần thứ hai. Tác giả bài Hịch là một danh tướng kiệt xuất của triều Trần, vị chủ tướng của cuộc kháng chiến lúc bấy giờ.

Với trọng trách mà dân tộc giao phó đè nặng trên đôi vai, với nhiệt tình yêu nước cháy bỏng, Trần Quốc Tuấn nung nấu một khát vọng cao cả: chiến thắng giặc thù, giữ yên giang sơn bờ cõi. Để khơi dậy ngọn lửa yêu nước và động viên ý chí chiến đấu trong ba quân tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn đã ra lời kêu gọi tướng sĩ bằng một bài Hịch bất hủ: Dụ Chư tì tưởng hịch vân – còn gọi là Hịch tướng sĩ văn, áng hùng văn của mọi thời đại.

Trước tiên chúng ta đi tìm hiểu về thể loại hịch, đó là một thể văn thư cổ mà các tướng lĩnh, vua chúa hoặc người thủ lĩnh một tổ chức, một phong trào dùng để kêu gọi cổ vũ mọi người hăng hái chiến đấu tiêu diệt kẻ thù. Hịch thường được viết theo lối văn tứ lục, cũng có khi viết bằng văn xuôi hay thơ lục bát.

Một bài hịch thường được cấu trúc theo ba phần chính:phần đầu: nêu lên một nguyên lí đạo đức hay chính trị làm cơ sở tư tưởng, lí luận; phần giữa: nêu thực trạng đáng chú ý (thường là kể tội kẻ thù); phần cuối: nêu giải pháp và lời kêu gọi chiến đấu. Hịch viết xong thường được vào ống hịch và do các sứ giả truyền đi khắp nơi. Nếu như hịch khẩn cấp thì trên đầu ống hịch thường có một chùm lông gà (do vậy mà gọi là vũ hịch).

Đoạn văn mở đầu Trần Quốc Tuấn đã nêu gương những anh hùng, những vị trung thân nghĩa sĩ đã hết mình vì nước mà mất đi cả tính mạng. Nói cách khác tác giả đang nêu lên nguyên lí đạo đức , cơ sở lý luận tư tưởng để khích lệ quân sĩ của mình. Những vị trung thân nghĩa sĩ ấy là “Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Ðế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước.

Kính Ðức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thái Sung; Cảo Khanh một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc”. có thể nói lập luận của Trần Quốc Tuấn vô cùng dễ hiểu ngắn gọn và súc tích. Ngài nói rằng võ tướng không thể hiểu được thì ngài lại lấy những minh chứng thực tế để cho họ hiểu. Và từ những điều ấy thì xét về thời điểm họ ra đời thì cũng phải có trách nhiệm với sự tồn vong của đất nước.

Sang đoạn tiếp theo tác giả đã phơi bày tố cáo những tội ác mà bọn giặc gây ra cho đất nước ta, đồng thời qua đó ông thể hiện tấm lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc của mình. Tội ác của chúng được Trần Quốc Tuấn nêu lên “Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thỏa lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu vàng bạc, để vét của kho có hạn. Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai vạ về sau !”.

Đó là hàng loạt tội ác của quân giặc, qua những hình ảnh “ nghênh ngang đi giữa đường” “ sỉ mắng triều đình” và những âm mưu của chúng ta đã vạch rõ tội ác và âm mưu của chúng. Không những thế tác giả còn thể hiện sự khinh bỉ chúng qua hình ảnh như “ đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ” . đồng thời tác giả tiếp tục bày tỏ lòng yêu nước và căm thù giặc của cá nhân mình. “ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm”.

Những lời văn chắc nịnh ấy như vang lên một sự căm thù đến tột đỉnh kẻ thù của mình, tác giả đã có nhưng lúc quên ăn, nước mắt đầm đìa, ruột đau như cắt , ý chí kiên cường quyết tâm của Trần Quốc Tuấn cũng thể hiện rõ sự căm thù đó. Dẫu có phải phơi xác ngoài chiến trường thì cũng nguyện xin làm để đánh đuổi bọn xâm lược dê chó kia.

Sau khi nêu mới ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn phê phán những hành động sai của tướng sĩ, đồng thời khẳng định những hành động nên làm nhằm thức tỉnh sự tự ý thức, trách nhiệm, tự nhìn nhận lại mình để điều chỉnh suy nghĩ cũng như hành động của tướng sĩ. Tác giả nêu lên sự thiệt hơn công bằng trong quân đội, đói thì cho cơm ăn, đi thủy thì cho thuyền mà đi bộ thì cho ngựa…nhưng nay chủ nhục mà quân không biết lo.

Tác giả tiếp tục nêu những sai lệch trong quân đội để cảnh tỉnh binh sĩ. Những sai lệch ấy là có người thì mê rượu, ***, quyến luyến vợ con, làm ruộng vườn để cung phụng gia đình, có kẻ lại ham săn bắn mà nhác việc quân. Đó là tất cả những sai lệch trong quân đội rất đáng lo ngại nếu bất chợt giặc Nguyên Mong sang thì nhưng sai lệch ấy, việc làm ấy có thể cứu đất nước được hay không?.

Đợi đến lúc đó vợ con cũng không còn để mà quyến luyến nữa, đất nước cung chẳng phải của mình mà tiếng nhơ nhuốc còn để lại mãi đời sau, lúc đo thì còn vui được nữa hay không. Từ đó Trần Quốc Tuấn nêu lên những việc cần phải làm ngay chính lúc này là tập trung vào luyện binh pháp, theo Binh Thư Yếu lược để đánh đuổi quân Mông được.

Và việc đó đồng nghĩa với việc những người thân hay những thú vui của họ sẽ vẫn còn, lúc ây vui cũng chưa muộn “Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, (. . . ) lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. ” , “Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào!

Chẳng những thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc của các ngươi cũng mất; chẳng những gia quyến của ta bị tan, mà vợ con các ngươi cũng khốn; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị giày xéo, mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên. . . ”. từ những lời nói ấy ta như thấy được Trần Quốc Tuấn đã rất khôn khéo với những lời trách móc hay cũng như giáo huấn binh sĩ của mình.

Nhưng lại có lúc lời nói ấy không giống của một chủ tướng mà giống người cùng cảnh ngộ với họ hơn. Có thẻ thấy tác giả là một vị tướng tài ba thấu hiểu hết những buồn vui cũng như thú chơi của binh sĩ để từ đó mà chấn chỉnh lại. Trước những sai lệch thì như trách móc nhưng sau đó không phải là hình phạt như chém đầu hay đánh đập mà chỉ là những lời khuyên. Điều đó góp phần cho quân sĩ không mất đi người nào mà còn được lòng người, dùng biện pháp mạnh bây giờ chỉ khiến cho người ta thêm phần không nể phục.

Nói tóm lại dù là khuyên răn bày tỏ thiệt hơn hay là lời nghiêm khắc cảnh cáo thì cũng đều nhằm khơi dậy ý thức về trách nhiệm, bổn phận của tướng sĩ đối với giang sơn xã tắc, đều hướng tới cái đích kêu gọi đồng tâm hiệp lực tiêu diệt quân xâm lược, đối phó với kẻ thù. Nghệ thuật trong bài cũng mang đến những thuyết phục tuyệt vời cho bài hịch.

Đó là nghệ thuật so sánh tương phản để thấy được sự ngông nghênh hống hách và bản chất dê chó của kẻ thù. Đồng thời với giọng văn lúc nghiêm trang như trách móc, sỉ mắng lúc nhẹ nhàng đồng cảnh ngộ, lúc tha thiết như tâm tình, lúc lại âm vang như thể hiện sự căm tức kẻ thù để đã mang lại hiệu ứng bất ngờ đến với binh sĩ.

Tất cả những nội dung và nghệ thuật ấy đã mang đến sự bất hủ và thành công cho áng văn này. không những thế cũng chính bởi sự thuyết phục của bào hịch những lời nói, những tâm tư tình cảm của Trần Quốc Tuấn đã đánh thức được binh sĩ giúp họ tỉnh lại và chú tâm vào công việc luyện binh pháp hằng ngày. Để rồi đi đến một kết quả mong đợi và tốt đẹp đó là chiến thắng quân Nguyên Mông một cách huy hoàng.


Bài văn phân tích tác phẩm “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn số 7

Bài văn phân tích tác phẩm “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn số 8

Thế kỉ XIII, đất nước Đại Việt liên tục đứng trước mối đe dọa của giặc Nguyên. Chiến đấu để độc lập, tự chủ, hay đầu hàng để chịu mất nước, nô lệ? Vua tôi nhà Trần đã quyết chọn con đường chiến đấu. Nhưng làm sao để có thể chọn được con đường ấy? Trần Quốc Tuấn đã đưa ra một lời giải đáp vừa thấu lí vừa đạt tình trong bài ‘Hịch tướng sĩ‘ bất hủ của mình. Bài hịch, mặc dầu là một bài văn chính luận, nhưng có những đoạn văn đọc lên nghe rất thống nhất, tràn đầy tình cảm như đoạn ông viết về lòng căm thù đối với quân giặc.

Trần Quốc Tuấn viết:

‘…Huống chi, ta cùng các ngươi sinh ra phải thời rối ren, lớn lên gặp buổi khó nhọc’. Không phải riêng ta hay riêng các ngươi, mà ta ‘cùng các ngươi’. Nói thế Trần Quốc Tuấn đã chia sẻ tâm sự của mình cùng với các tướng sĩ, cũng là chia một chân lí của thời đại: trong thời bình, cương vị của mọi người có thể khác nhau, nhưng khi đất nước bị lâm nguy, nền tự chủ của đất nước bị đe dọa hoặc nếu mất nước thì tất cả mọi người, không trừ ai, sẽ giống nhau trước nỗi nhục chung, nỗi khổ chung của kẻ mất nước.

Bởi vậy, nỗi nhục sau đây không phải của riêng ai: ngó thấy sứ giặc đi lại nghêng ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ… Những sự việc như thế có thể nhiều người đã biết một cách riêng biệt và cụ thể, đã được vị tướng họ Trần hệ thống lại, dựng thành một bức tranh sinh động về hành động láo xược của sứ nhà Nguyên.

Ông chỉ nêu lên ba sự việc của bọn chúng: đi lại nghênh ngang, sỉ mắng triều đình, bắt nạt tể phụ (tức là bậc đứng đầu trong các quan), kèm theo những hình ảnh diễn tả đầy căm giận: ‘uốn lưỡi cú diều’, ‘đem thân dê chó’. Những sự việc đó nhằm nói lên điều gì? Danh dự của đất nước bị sỉ nhục, chủ quyền của đất nước xâm phạm. Làm sao có thể không cảm thấy chính mình bị nhục, làm sao có thể không cảm thấy lòng đầy căm giận khi chính mắt mình nhìn thấy những sự việc như thế.

Tác giả bài hịch lại kể tiếp về bọn giặc: '… lại thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thỏa lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng để vét của kho có hạn’. Không chỉ dừng lại ở những hành động láo xược, bọn xứ giặc còn có những đòi hỏi vô lý về của cải vật chất. Ý nghĩa toát ra từ việc trở nên rất sinh động khi tác giả đặt ra sự tương phản giữa ‘của kho có hạn’ với ‘lòng tham khôn cùng’ của bọn sứ Mông cổ.

Thế thì, với những hành động ngông cuồng, sỉ nhục về mặt tinh thần, vơ vét về mặt vật chất, bọn sứ giặc đã lộ rõ bản chất tham tàn của kẻ xâm lược. Từ đó, thái độ nhìn xa trông rộng đầy tinh thần cảnh giác của tác giả đã hoàn toàn đúng đắn: ‘Thật khác nào ném thịt cho hổ đói, sao cho khỏi gây tai vạ về sau!‘

Như thế có nghĩa là sự nhân nhượng đã đến chỗ tận cùng giới hạn. Không thể nhân nhượng hơn được nữa! Không thể nhẫn nhục hơn được nữa! Đến đây, Trần Quốc Tuấn bày tỏ lòng căm giận của mình: ‘Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức rằng chưa xẻ thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù, dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng’.

Trong văn thơ cổ, thật chưa có ở đâu, lòng căm thù giặc và ý chí quyết chiến được diễn tả một cách chân thành, thống thiết và mãnh liệt đến thế. Đây là lòng căm thù và ý chí riêng của một người nhưng cũng tiêu biểu cho lòng căm thù và ý chí của toàn thể nhân dân Đại Việt. Hay có thể nói: ý chí của cả một dân tộc, một đất nước dồn nén lại trong nỗi niềm của một con người.

Có một điều đáng lưu ý: ở đoạn trên tác giả nói đến hoàn cảnh chung của ‘ta’ và ‘các ngươi’, nhắc đến nguy cơ chung, nỗi nhục chung của ‘ta cùng các ngươi’ nhưng đến đoạn sau, nói lên ý chí căm thù giặc, tác giả chỉ nói ‘ta’. Vì sao vậy? Vì đó chính là điều mà vị tổng tư lệnh quân đội mong đợi ở tướng sĩ, đòi hỏi ở mỗi tướng sĩ của mình. Đằng sau đoạn văn là một câu hỏi bức bách: thời cuộc rối ren như vậy, đất nước gặp buổi khó khăn như vậy, nỗi lòng ta như vậy, còn lòng các ngươi ra sao? Các ngươi đã thấy nỗi nhục của nước, nhưng các ngươi đã có lòng căm hận đến như thế chăng?

Nếu ‘Hịch tướng sĩ’ của Trần Quốc Tuân là một trong những áng văn hay nhất thời cổ, thì đoạn văn trên là một trong những đoạn văn vừa hùng hồn vừa tình cảm nhất của bài hịch. Đọc đoạn văn, ta còn như nghe vang lên khí thế của cả một thời kì lịch sử oanh liệt.


Bài văn phân tích tác phẩm “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn số 8

Bài văn phân tích tác phẩm “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn số 9

Trần Quốc Tuấn là một vị tướng tài đã có công lớn trong hai cuộc kháng chiến chống giặc Mông. Tác phẩm “Hịch tướng sĩ” được ra đời trước cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – mông lần thứ hai mang tình yêu tha thiết, nồng nàn của ông dành cho quê hương, đất nước. Đồng thời, tác phẩm còn được coi là lời hiệu triệu toàn quân trước ngày ra trận.

Là một vị tướng kiệt xuất, Trần Quốc Tuấn yêu nước tha thiết và hết lòng tận trung với dân, với nước. Nên khi thấy giặc ngoại xâm ngang tàng, dám coi thường đất nước, sỉ nhục vua quan, ông tố cáo chúng bằng lời lẽ đanh thép: “ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê cho mà bắt nạn tể phụ”.

Ta lại càng căm tức hơn khi chúng dám vơ vét tài sản của nhân dân: “thác mệnh hốt tất liệt mà đòi ngọc lụa, để thỏa lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vơ vét của kho có hạn.” Đưa ra những bằng chứng về sự tàn bạo, tham lam của giặc, Trần quốc Tuấn đã khơi dậy lòng căm thù và ý chí chiến đấy của toàn thể nhân dân, tướng sĩ.

Trước nỗi nhục mất nước, dân tộc rơi vào cảnh lâm nguy, một vị tướng tài không khỏi trằn trọc băn khoăn, lo lắng: “Ta thường đến bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Ông đau đáu nhìn vận nước đang suy mà căm thù lũ giặc, quyết không đội trời chung: “xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù.” Ông nguyện hi sinh bản thân để đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại độc lập cho dân tộc: “dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.”

Không chỉ một lòng vì nước quên thân, Trần Quốc Tuấn còn là một vị tướng biết yêu thương những binh sĩ như những người anh em cùng nhau xông pha ngoài chiến trường: “không có mặc thì ta cho cơm, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ra cấp bổng, đi thủy thì cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa”. Bởi vậy, những binh sĩ vừa khâm phục đức hi sinh của ông mà lại vừa cảm thấy gần gũi, cảm động trước những ân tình ông dành cho họ.

Song song với sự quan tâm tới các binh sĩ, ông cũng phê phán nghiêm khắc những tư tưởng, ý thức sai trái của họ: “thấy nước nhục mà không biết lo, thấy chủ nhục mà không biết thẹn, làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức”.

Ông cũng phê bình gay gắt những người chỉ ham chơi mà bỏ bê trách nhiệm, nhất là khi đất nước đang lâm nguy: “lấy việc chọi gà làm vui đùa, lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển, hoặc vui thú vườn ruộng, hoặc quyến luyến vợ con, hoặc lo làm giàu mà quên việc nước, hoặc ham săn bắn mà quên việc binh, hoặc thích uống rượu, hoặc mê ca hát.” Trần Quốc Tuấn đã làm thức tỉnh biết bao binh sĩ để họ ý thức được những việc làm sai trái của chính mình, để từ đó mà sửa chữa, trở lại với trách nhiệm mà bản thân cần đảm đương lúc này. Đó chính là cùng nhau đoàn kết, rèn luyện và chiến đấu với quân thù, bảo vệ đất nước.

“Hịch tướng sĩ” thực sự là một áng văn bất hủ cho thấy Trần Quốc Tuấn không chỉ là một vị tướng tài yêu đất nước, có khả năng thu phục lòng người mà còn là một tài năng văn chương xuất chúng. Với giọng văn đanh thép chứa đầy những suy tư về vận mệnh dân tộc, tên tuổi ông sẽ mãi rạng ngời trên những trang văn học, trang sử vàng của dân tộc Việt Nam.


Bài văn phân tích tác phẩm “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn số 9

Bài văn phân tích tác phẩm “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn số 10

Nhắc đến Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn là nhắc đến một vị tướng kiệt xuất với khả năng lãnh đạo tài ba và tấm lòng yêu nước thiết tha. Bằng tài năng và bản lĩnh cầm quân của mình mà ông đã dành nhiều thắng lợi vẻ vang cho nhân dân nhà Trần. Năm 1285, vào trước khi diễn ra cuộc kháng chiến Mông- Nguyên, ông đã viết nên bài Hịch tướng sĩ nhằm khích lệ tinh thần đấu tranh và học tập của các tướng sĩ trong quân đội. Đây thực sự là một áng văn bất hủ thể hiện rõ tư tưởng yêu nước và lòng quyết tâm chống lại kẻ thù xâm lược.

Mở đầu lời kêu gọi, tác giả đã dẫn ra hàng loạt các vị anh hùng nghĩa sĩ trung quân ái quốc như Kỉ Tín, Dự Nhượng, Do Vu, Kính Đức,…..Họ đã không ngại cái hi sinh cũng không tham thói nữ nhi, tửu sắc, một lòng phò trợ các vị vua, tướng lĩnh của mình. Đó còn là Vương Công Kiên lãnh đạo đội quân tuy nhỏ mà khiến quân Mông Cổ phải rút lui sau bao tháng cầm cự, là Cốt Đãi Ngột Lang xông pha nghìn trùng đi đánh bại quân Năm Chiếu.

Tất cả họ đều là những gương sáng, lưu danh sử sách muôn đời, từ trước đến nay, hào kiệt, anh tài đâu kể hết. Đó là một niềm tự hào của Trần Quốc Tuấn khi nghĩa về thế hệ đi trước đồng thời như một lời nhắc nhở, khích lệ các tướng lĩnh tự xem lại bản thân mình, cố gắng hết mình lập công danh cho đất nước, nhân dân.

Sau khi nêu gương các anh tài nghĩa sĩ, Trần Quốc Tuấn tiếp tục nêu rõ thực trạng của đất nước giữa buổi thời loạn lạc, quân giặc tàn ác :”Lén nhìn sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ. Ỷ mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để phụng sự lòng tham khôn cùng; khoác hiệu Vân Nam Vương mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn. Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau. Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột”.

Sự căm phẫn tội ác tham tàn của bọn giặc khiến tác giả vạch trần sự bạc nhược, ích kỉ, đê hèn của chúng. Quân giặc ngang ngược coi trời đất bằng vung, chẳng màng đến đời sống khổ cực, lầm than của bao người mà nhẫn tâm bòn rút sức lực, của cải của nhân dân. Nỗi tàn ác ấy trời đất đã rõ, muôn người đều biết, vậy mà chúng vẫn điêu ngoa, xảo trá, điều đó càng khiến vị tướng đau đáu nỗi lòng, lo lắng cho vận nước, cho nhân dân: “Ta thường tới bữa quên ăn……ta cũng vui lòng”. Một nỗi niềm khôn tả của tấm lòng kẻ yêu nước.

Vì thương dân, vì lo sợ rằng rồi quân giặc sẽ càng hống hách mà ngày đêm không ngủ được, lòng đau đớn thấy, mối hận quân thù càng ngày càng lớn. Ý thức dân tộc càng khiến vị tướng lĩnh thêm bản lĩnh, nguyện hi sinh cả thân xác mình để giết chết lũ quân thù ngạo mạn kia mới mãn nguyện, vui lòng. Vì đất nước yên bình thì tính mạng có đáng là bao, đó là một tâm hồn cao đẹp của một trung thần, hào kiệt.

Bằng giọng tâm tình và chân thành, tác giả nhắc lại những ân tình của một vị lĩnh tướng với nghĩa quân của mình. Ông xem họ như huynh đệ, như người thân ruột thịt, cùng nhau chia sẻ những khó khăn, thiếu thốn, cùng nhau xông pha chiến trận, vui cười, ai cũng được đối đãi tử tế, chân tình biết bao: “Các ngươi ở cùng ta….ngày trước cũng chẳng kém gì”.

Sau đó, Trần Quốc Tuấn thẳng thắn chỉ ra những điều đáng trách của các nghĩa sĩ, họ có những ý nghĩ tầm thường, thiếu trách nhiệm khi nghiễm nhiên ăn chơi, vui đùa trước cảnh nhân dân lầm thân, loạn lạc. Đồng thời, khẳng định những hậu quả vô cùng đau lòng khi giặc Mông xâm chiếm: “Nếu có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc…… các ngươi muốn vui vẻ phỏng có được không?”.

Bằng giọng văn nghiêm khắc, lời bày tỏ thống thiết, chân thành Trần Quốc Tuấn mong muốn chấn chỉnh suy nghĩ, hành động của các nghĩa sĩ trong quân đội mình. Phải nhận thức đúng đắn vào trò và trách nhiệm của mình, hành động vì nghĩa lớn, vì việc trọng, không vì những đam mê, cám dỗ tầm thường mà bỏ bê đất nước, bỏ bê bản thân mình.

Từ đó, Trần Quốc Tuấn tiếp tục khuyên răn, giải thích, hướng dẫn những hành động cần phải làm, nên làm của các quân đội ta lúc bấy giờ với những thành quả đạt được nếu tích cực rèn luyện “Nay ta chọn lọc binh pháp các nhà hợp thành một tuyển, gọi là Binh Thư Yếu Lược. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là thần tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là nghịch thù”.

Bài hịch tuy ngắn gọn nhưng đã phản ánh được tinh thần của thời đại, hào khí Đông A. Hịch tướng sĩ chứa chan tấm lòng yêu nước, nỗi căm hận quân thù và tinh thần quyết thắng. Với những lời lẽ sắc bén, hợp lý, chân tình, Trần Quốc Tuấn đã lay động được tấm lòng của hàng ngàn nghĩa sĩ, thôi thúc họ sống và rèn luyện, chiến đấu hết mình vì nước Việt thân yêu.


Bài văn phân tích tác phẩm “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn số 10

Bài văn phân tích tác phẩm “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn số 11

Triều đại nhà Trần là mốc vàng son của lịch sử Việt Nam. Thời kì ấy không chỉ có các vị vua anh minh mà còn có những vị tướng lĩnh tài ba góp phần làm nên những chiến thắng lịch sử. Trong đó có Trần Quốc Tuấn vị tướng tài ba giúp nhân dân đánh thắng quân Mông – Nguyên xâm lược.

Không chỉ là một nhà quân sự giỏi mà Trần Quốc Tuấn cũng giỏi văn chương. “Hịch tướng sĩ” là tác phẩm thể hiện cái tài ấy của ông“Hịch tướng sĩ” được viết trước khi cuộc chiến kháng Mông – Nguyên xâm lược lần thứ hai diễn ra. Từ đó bài Hịch kêu gọi, cổ vũ động viên các tướng sĩ, quân lính chung sức đồng lòng chống giặc đồng thời chăm chỉ đọc “Binh thư yếu lược”.

Mở đầu bài Hịch, Trần Quốc Tuấn nêu các gương sáng trong lịch sử. “Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước. Kính Đức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thái Sung; Cảo Khanh một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc.” Có người làm tướng, có người làm quan nhỏ nhưng tất cả sẵn sàng chết vì vua, vì chủ, vì đất nước, không sợ hiểm nguy, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Qua đó tác giả muốn khích lệ tinh thần, lòng trung quân ái quốc của các tướng sĩ.Sau khi nêu gương các tướng, các quan công yêu nước lịch sử, nhà quân sự tài ba tỏ thái độ căm ghét kẻ thù và bày tỏ nỗi lòng của mình. Trần Quốc Tuấn nêu lên tội ác của giặc: “Đi lại nghênh ngang” “uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình” “đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ”, “đòi ngọc lụa, thu bạc vàng, vét của kho”.

Bằng cách sử dụng những hình ảnh ẩn dụ, so sánh, giọng điệu mỉa mai, châm biếm, nhịp điệu dồn dập liên tiếp, căm phẫn dồn nén lột tả sự ngang ngược , tham lam, tàn bạo của kẻ thù. Từ đó, Trần Quốc Tuấn bày tỏ nỗi lòng của mình : “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.”

Tác giả bày tỏ nỗi niềm căm tức, lo lắng, đau xót cho đất nước, căm phẫn kẻ thù, sẵn sàng hi sinh tất cả vì đất nước.Bày tỏ nỗi niềm căm phẫn kẻ thù đồng thời bài Hịch cũng chỉ ra, phê phán thái độ và hành động sai trái của các tướng sĩ, để từ đó chỉ ra những việc nên làm. Chỉ ra những hành động tầm thường, thiếu trách nhiệm của tướng sĩ : “Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái thường đãi yến sứ ngụy mà không biết căm.

Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc *** làm thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm” bằng giọng điệu mỉa mai có phần khiển trách.

Vì hậu quả sẽ dẫn đến nước mất nhà tan. Qua đó Trần Quốc Tuấn muốn phê phán nghiêm khắc lối sống cầu an hưởng lạc, thờ ơ vô trách nhiệm của tướng sĩ.Bởi vậy Trần Quốc Tuấn đưa ra giả thiết đối lập với hành động sai trái của tướng sĩ qua việc đọc “Binh thư yếu lược” do ông soạn ra. “ Phải huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên” tích cực trau dồi binh thư, rèn luyện chăm chỉ,… thì giữ vững đất nước, tiếng thơm lưu truyền, gia đình hạnh phúc.

Tác giả đưa ra hai đường lối đối lập để nêu cao tinh thần ý chí tự giác, tích cực rèn luyện, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh vì đất nước.Qua bài “Hịch tướng sĩ”, người đọc thấy cảm phục và trân trọng Quốc Công Tiết Chế Trần Quốc Tuấn khi không chỉ là nhà quân sự tài giỏi mà còn yêu thương, lo lắng, quan tâm tới tướng sĩ thứ bậc thấp hơn để từ đó thấy được tình yêu đất nước to lớn trong ông.


Bài văn phân tích tác phẩm “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn số 11

Bài văn phân tích tác phẩm “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn số 12

Trong dòng chảy của tinh thần yêu nước xuyên suốt tiến trình văn học trung đại Việt Nam, “Hịch tướng sĩ” của tác giả Trần Quốc Tuấn là một trong những tác phẩm tiêu biểu nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng- biểu hiện tập trung nhất cho tinh thần yêu nước lúc bấy giờ. Ra đời vào khoảng trước cuộc kháng chiến chống Mông- Nguyên lần thứ hai (1285), “Hịch tướng sĩ” đã nêu cao tinh thần chống giặc ngoại xâm, trở thành đỉnh cao nhất của văn học yêu nước thời Trần.

Mở đầu tác phẩm, tác giả Trần Quốc Tuấn đã nêu bật những tấm gương vinh danh sử sách để khích lệ chí lập công lập danh và tinh thần hi sinh vì sự nghiệp bảo vệ giang sơn bờ cõi của các tướng sĩ. Đó là các bậc trung thần nghĩa sĩ: có người là tướng lĩnh như Kỉ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, có người bình thường như Thân Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh và cả những tấm gương đời xưa ở thời Xuân thu, Chiến quốc, triều đại nhà Hán, nhà Đường, thời Tống, thời Nguyên. Tác giả nêu gương sáng với mục đích khích lệ tinh thần dũng cảm và lí tưởng chân chính của người tướng sĩ “cùng trời đất muôn đời bất hủ”.

Ở phần tiếp theo của tác phẩm, tác giả đã miêu tả chân thực tội ác và sự ngang ngược của giặc để khơi gợi lòng căm thù và tự tôn dân tộc. Tác giả đã vận dụng lối nói ẩn dụ với những từ ngữ vô cùng độc đáo như “lưỡi cú diều”, “thân dê chó” để diễn tả lòng căm thù và cái nhìn coi thường đối với kẻ thù xâm lược để khích lệ tinh thần yêu nước bất khuất.

Và lòng căm thù đó đã được kết tinh cao độ qua những lời giãi bày trực tiếp vô cùng chân thành: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”.

Tác giả đã trực tiếp bộc lộ thái độ không khoan nhượng trước kẻ thù để truyền lửa tới những binh lính dưới quyền, tạo nên âm hưởng kiên cường và bị tráng cho bài hịch. Đồng thời cho thấy quan điểm của tác giả về tinh thần yêu nước cũng như mục đích cao cả mà bài hịch muốn hướng tới: yêu nước thì phải chiến đấu, phải diệt giặc để bảo vệ bờ cõi.

Và để biến tinh thần yêu nước trở thành lí tưởng, hành động đúng đắn, tác giả đã lên án, phê phán thái độ, hành động sai trái của các tướng sĩ đồng thời nêu ra những hành động đúng đắn mà họ nên làm. Tác giả đã vạch rõ ranh giưới giữa hai con đường chính- tà để thuyết phục tướng sĩ.

Dưới quan điểm của tác giả, những việc làm tưởng chừng như nhỏ nhặt, bao gồm thú vui chọi gà, ***, ham săn bắn,… là những hành vi lệch lạc và là biểu hiện của thói ăn chơi hưởng lạc, đặc biệt là trong bối cảnh đất nước phải đối mặt với hiểm họa xâm lăng.

Điểm mới mẻ trong bài hịch này là tác giả đã đặt ra mối quan hệ giữa quốc gia dân tộc và gia đình, giữa cái chung và cái riêng: thái ấp, bổng lộc không còn; gia quyến, vợ con khốn cùng, tan nát mà xã tắc, tổ tông bị giày xéo: thể hiện rõ quan điểm nước mất nhà tan. Bởi vậy, việc đúng đắn mà mỗi một người nên làm là chăm lo “tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ” để bảo vệ giang sơn bờ cõi.

Bằng tinh thần yêu nước cùng tấm lòng của một vị chủ tướng có trách nhiệm, Trần Quốc Tuấn đã viết nên một bài hịch vô cùng xúc động, nhưng đồng thời cũng rất quyết liệt, mạnh mẽ về tinh thần giải phóng, đấu tranh chống lại giặc ngoại xâm. Tinh thần quyết chiến quyết thắng trở thành xương sống liên kết các phần trong bài hịch, tạo nên sự gắn kết hữu cơ và thống nhất.


Bài văn phân tích tác phẩm “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn số 12

Bài văn phân tích tác phẩm “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn số 13

Với trọng trách mà dân tộc giao phó đè nặng trên đôi vai, với nhiệt tình yêu nước cháy bỏng, Trần Quốc Tuấn nung nấu một khát vọng cao cả: chiến thắng giặc thù, giữ yên giang sơn bờ cõi. Để khơi dậy ngọn lửa yêu nước và động viên ý chí chiến đấu trong ba quân tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn đã ra lời kêu gọi tướng sĩ bằng một bài Hịch bất hủ: Dụ Chư tì tưởng hịch vân – còn gọi là Hịch tướng sĩ văn, áng hùng văn của mọi thời đại.

Một bài hịch thường được cấu trúc theo ba phần chính:phần đầu: nêu lên một nguyên lí đạo đức hay chính trị làm cơ sở tư tưởng, lí luận; phần giữa: nêu thực trạng đáng chú ý (thường là kể tội kẻ thù); phần cuối: nêu giải pháp và lời kêu gọi chiến đấu. Hịch viết xong thường được vào ống hịch và do các sứ giả truyền đi khắp nơi. Nếu như hịch khẩn cấp thì trên đầu ống hịch thường có một chùm lông gà (do vậy mà gọi là vũ hịch).

Đoạn văn mở đầu Trần Quốc Tuấn đã nêu gương những anh hùng, những vị trung thân nghĩa sĩ đã hết mình vì nước mà mất đi cả tính mạng. Nói cách khác tác giả đang nêu lên nguyên lí đạo đức , cơ sở lý luận tư tưởng để khích lệ quân sĩ của mình. Những vị trung thân nghĩa sĩ ấy là “Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Ðế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước.

Sang đoạn tiếp theo tác giả đã phơi bày tố cáo những tội ác mà bọn giặc gây ra cho đất nước ta, đồng thời qua đó ông thể hiện tấm lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc của mình. Tội ác của chúng được Trần Quốc Tuấn nêu lên “Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thỏa lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu vàng bạc, để vét của kho có hạn.

Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai vạ về sau !”. đó là hàng loạt tội ác của quân giặc, qua những hình ảnh “ nghênh ngang đi giữa đường” “ sỉ mắng triều đình” và những âm mưu của chúng ta đã vạch rõ tội ác và âm mưu của chúng.

Không những thế tác giả còn thể hiện sự khinh bỉ chúng qua hình ảnh như “ đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ” . đồng thời tác giả tiếp tục bày tỏ lòng yêu nước và căm thù giặc của cá nhân mình. “ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm”.

Tác giả tiếp tục nêu những sai lệch trong quân đội để cảnh tỉnh binh sĩ. Những sai lệch ấy là có người thì mê rượu, ***, quyến luyến vợ con, làm ruộng vườn để cung phụng gia đình, có kẻ lại ham săn bắn mà nhác việc quân. Đó là tất cả những sai lệch trong quân đội rất đáng lo ngại nếu bất chợt giặc Nguyên Mong sang thì nhưng sai lệch ấy, việc làm ấy có thể cứu đất nước được hay không?. Đợi đến lúc đó vợ con cũng không còn để mà quyến luyến nữa, đất nước cũng chẳng phải của mình mà tiếng nhơ nhuốc còn để lại mãi đời sau, lúc đó thì còn vui được nữa hay không.

Từ đó Trần Quốc Tuấn nêu lên những việc cần phải làm ngay chính lúc này là tập trung vào luyện binh pháp, theo Binh Thư Yếu lược để đánh đuổi quân Mông được. Và việc đó đồng nghĩa với việc những người thân hay những thú vui của họ sẽ vẫn còn, lúc ấy vui cũng chưa muộn “Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, (. . . ) lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. ” , “Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào!

Nhưng lại có lúc lời nói ấy không giống của một chủ tướng mà giống người cùng cảnh ngộ với họ hơn. Có thẻ thấy tác giả là một vị tướng tài ba thấu hiểu hết những buồn vui cũng như thú chơi của binh sĩ để từ đó mà chấn chỉnh lại. Trước những sai lệch thì như trách móc nhưng sau đó không phải là hình phạt như chém đầu hay đánh đập mà chỉ là những lời khuyên. Điều đó góp phần cho quân sĩ không mất đi người nào mà còn được lòng người, dùng biện pháp mạnh bây giờ chỉ khiến cho người ta thêm phần không nể phục.

Nói tóm lại dù là khuyên răn bày tỏ thiệt hơn hay là lời nghiêm khắc cảnh cáo thì cũng đều nhằm khơi dậy ý thức về trách nhiệm, bổn phận của tướng sĩ đối với giang sơn xã tắc, đều hướng tới cái đích kêu gọi đồng tâm hiệp lực tiêu diệt quân xâm lược, đối phó với kẻ thù. Nghệ thuật trong bài cũng mang đến những thuyết phục tuyệt vời cho bài hịch.

Đó là nghệ thuật so sánh tương phản để thấy được sự ngông nghênh hống hách và bản chất dê chó của kẻ thù. Đồng thời với giọng văn lúc nghiêm trang như trách móc, sỉ mắng lúc nhẹ nhàng đồng cảnh ngộ, lúc tha thiết như tâm tình, lúc lại âm vang như thể hiện sự căm tức kẻ thù để đã mang lại hiệu ứng bất ngờ đến với binh sĩ.

Tất cả những nội dung và nghệ thuật ấy đã mang đến sự bất hủ và thành công cho áng văn này. không những thế cũng chính bởi sự thuyết phục của bài hịch những lời nói, những tâm tư tình cảm của Trần Quốc Tuấn đã đánh thức được binh sĩ giúp họ tỉnh lại và chú tâm vào công việc luyện binh pháp hằng ngày. Để rồi đi đến một kết quả mong đợi và tốt đẹp đó là chiến thắng quân Nguyên Mông một cách huy hoàng.


Bài văn phân tích tác phẩm “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn số 13

Bài văn phân tích tác phẩm “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn số 14

Trước cuộc xâm lược của quân Mông – Nguyên lần thứ hai (1285), tình hình giao thiệp giữa chúng và nước ta rất căng thẳng. Bọn sứ giả trịch thượng, nghênh ngang, yêu sách đủ điều. Thời kỳ hoãn binh không kéo dài được nữa. Phải chuẩn bị gấp rút hơn.

Trần Quốc Tuấn thấy tình hình tướng lĩnh chưa được sẵn sàng, soạn ra cuốn Binh thư yếu lược là một cuốn sách nói những điều cốt yếu về chiến lược, chiến thuật quân sự, rồi viết bài hịch này đế khuyên răn các tướng lĩnh nhận rõ tình hình bấy giờ, ra sức nghiên cứu binh thư, rèn luyện võ nghệ, chuẩn bị chống giặc. Bài hịch, do đó, coi như là một bài mở đầu cho việc phố biến cuốn sách kia. Không thấy đâu chép thời điểm sáng tác bài văn, nhưng căn cứ vào nội dung thì phải một thời gian trước khi quân Mông – Nguyên xâm lược lần thứ hai.

Hịch là một thể văn kêu gọi chiến đấu. Nó không theo công thức nào. Nó là một bài chính luận. Thường dùng văn xuôi, có khi dùng văn biền ngẫu. Đế kêu gọi thành công, phải nêu lý lẽ xác đáng nhưng chủ yếu nhằm chinh phục tình cầm. Bài hịch hay thường đậm chất trữ tình. Văn học của ta không nhiều bài hịch lắm.

Nêu gương xả thân vì việc nghĩa của người xưa và của người đương thời, vạch ra tình hình Tổ quốc đang gặp hiểm nguy, bị đe dọa… xâm lược, rồi liên hệ phê phán thái độ cầu an hưởng lạc của tướng lĩnh, thức tỉnh họ về trách nhiệm cứu nước. Trần Quốc Tuấn, với tư cách là vị chủ soái nói với cấp chỉ huy dưới trướng mình, đã lấy tâm trạng mình trò chuyện với họ, thuyết phục họ bằng con đường tình cảm, động viên họ học tập, rèn luyện, giáo dục quân sĩ để sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng, tất cả nhằm bộc lộ một tấm lòng yêu nước thiết tha, một mối thù giặc sâu sắc và một chí quyết thắng sắt đá.

Bắt đầu phần 1 tác giả nói: Ta thường nghe. Mỏ” lời như vậy là muốn nói một câu chuyện tâm tình. Chuyện ta thường nghe, thường học tập. Nay ta đem trao đổi với các ngươi đề” các ngươi cùng nghe, cùng suy nghĩ.

Xưa nay có biết bao nhiêu trung thần nghĩa sĩ hành động không tiếc thân mình. Kẻ cứu vua, người trả thù cho chủ, kẻ mắng giặc dữ, người chống giặc mạnh… Tác giả kể một hơi sáu người đời xưa, và khi thấy người nghe mình không lấy làm tin thì dẫn luôn bốn gương đời nay.

Trước sau có đến mười người. Nói cho đúng, hành động của họ đều đáng khen, nhưng cái nghĩa lớn mà vì nó họ hy sinh, xét ra không quá một cá nhân, chưa kể trong số mười người ấy có hai tên xâm lược, chỉ có hai người thật sự vì nước nhà mà chống giặc. Tuy vậy tác giả đều cho họ vì nước bỏ mình, họ là những bề tôi bậc tháp mà trung nghĩa sáng ngời, lưu danh sử sách, cùng trời đất muôn đời bất hủ, nhăn dân còn đội ơn, đến nay còn lưu tiêng tốt.

Chỉ vì họ không theo thói nữ nhi thường tình, không chịu chết già ở xó cửa, mà dám hi sinh, dám đường đường chống giặc đông gấp trăm lần mình, dám xông vào chỗ lam chướng, xa xôi nghìn trùng. Người xưa, thôi không nói làm gì. Nhưng những người gần đây, nào họ có gì đặc biệt, họ cũng chỉ là những cấp chỉ huy bình thường. Họ lập được những thành tích đáng ngợi khen, thì tại sao các ngươi lại không làm được?

Như phần 1 đã nói, là trung thần nghĩa sĩ phải dám xả thân như mười người trên kia. Huống chi tình hình đất nước hiện nay đang hiểm nghèo biết mấy!

Đất nước đâu phải buổi thanh bình. Ta cùng các người sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Đó là nói thật. Năm 1258 quân phong kiến Mông cố đã xâm lược nước ta lần thứ nhất. Chúng bị ta đánh bại. Nhưng trong suốt hai mươi bảy năm từ đó đến cuộc xâm lược lần thứ hai năm 1285, chúng không hề đế ta yên, mà càng ngày càng ngang ngược. Sự thật ấy là nỗi đau xót chung của đất nước, của ta cùng các ngươi.

Nay thì cảnh tượng hàng ngày đang xảy ra, ta không thế nhắm mắt không ngó thấy sứ giặc đi nghênh ngang ngoài đường, dám sỉ mắng triều đình, dám bắt nạt tể phụ mà chúng là thứ gì, chỉ là quân dè chó, cú diều mà thôi. Chúng lại lấy thế, thằng nọ thằng kia đòi ngọc lụa, bạc vàng, trong khi kho của ta có hạn mà lòng tham của chúng không cùng.

Ta thừa biết làm như thế cũng chẳng khác gì đem thịt mà ném cho hồ đói, thế nào rồi hố cũng vồ ta. Bởi chúng nó đâu chỉ muốn có bạc vàng, ngọc lụa. Chúng nó giả danh mượn đường để đánh Chiêm Thành, kỳ thực là chúng muốn cướp nước ta. Cái vạ về sau là cái vạ đó.

Tình hình đất nước đang như vậy. Loạn lạc và gian nan nay đã đến như vậy. Ta cùng các ngươi cùng chung tình hình. Chủ soái ghép mình vào với các tướng, chia sẻ chung với họ tình hình ấy, cùng sinh ra và cùng lớn lèn trong đó, ngang hàng, cùng lứa. Lời nói nghe như thân mật mà có gì đau xót bên trong. Như có tiếng thở dài, hay một giọng ngậm ngùi đang ẩn giấu. Hỏi người nghe còn lòng nào tách rời mình ra ngoài dòng cảm xúc ấy?

Đoạn 2: Tình hình đã chung ắt cảm xúc cũng phải chung. Cả một đoạn từ “Ta thường tới bữa…” đến “ta cũng vui lòng” là điều nung nấu trong tâm trạng chủ soái. Quên ăn, bỏ ngủ, đau, buồn, căm, tức, quyết giết giặc, quyết hy sinh. Tình cảm nào cũng cao độ. Quân giặc xúc phạm đến quốc thể, cả triều đình, cả dân tộc, chúng ra mặt cướp nước, coi ta như giun dế, rác rơm.

Chịu làm sao được! Ấy mà phải tạm thời chịu nhịn đề đủ thời gian chuẩn bị. Sử kế: Vào thời gian ấy, một lần đại biểu ta tiếp sứ giặc. Đang trao đổi, có gì phật ý, tên sứ trở đầu quạt cầm tay gõ mạnh vào cái đầu trọc của đại biểu ta, phun máu. Vị đại biểu ta không đổi sắc mặt, bình tĩnh lấy khăn lau chỗ máu chảy và tiếp tục trao đối.

Dũng khí có bộc lộ thành sấm sét đùng đùng, nhưng cũng có khi biểu hiện thành im lặng. Có điều cái im lặng ấy là im lặng chứa sấm sét. Ngoài mặt, trước quân thù, trước mọi người, phải giữ đúng thái độ nhẫn nhịn cần thiết. Nhưng trong lòng, ban đêm, một mình hay với người tâm phúc, như với các tướng lĩnh của mình, sao cầm lòng mình (lược mà không đô sôi trào?

Cho nên, đây là sự cởi mớ tâm tình sâu kín nhất với ke mình hoàn toàn tin tưởng, với ké mình có thê phơi bày ruột gan được. Cũng bắt đầu bằng ta và lấy ta làm chú thế: Ta thường tới bữa quèn ăn… ta củng vui lòng. Đế bộc bạch hết mức cho bù lại cái nín nhịn khố tâm thường ngày, nhưng cũng để tướng lĩnh mình nghe, đế truyền cho họ cái lửa nhiệt tình của mình.

Chủ soái đã xem xét lại việc mình đối xử với tướng lĩnh có đúng với tinh thần một quân đội mà trên dưới coi nhau như cha con không. Một loạt chữ ta cho cũng dính chút quan hệ của chủ tớ, nhưng chú yêu là chứng tỏ sự chăm sóc thật chu đáo, tỉ mỉ, đầy tình thương yêu, trân trọng. Lặp lại và nhấn mạnh ba lần cùng ta, cùng nhau: Cùng ta coi giữ binh quyển, lúc trận mạc cùng nhau sống chết, lúc nhàn hạ cùng nhau vui cười.

Tuy cách biệt chức vị, tuy quan hệ chủ tớ, nhưng là cùng nhau lãnh trách nhiệm chung, cùng nhau làm nhiệm vụ chiến đấu, sống chết đều cùng nhau, cùng nhau yên nghỉ lúc nhàn hạ, vui cười đều cùng nhau. Tình cảm thắm thiết đó là biểu hiện tốt đẹp của tinh thần “phụ tử chi binh”. Vậy cách đối xử của chủ soái đối với cấp dưới là chí tình chí nghĩa.

Đoạn 3: Chủ soái phơi bày tâm can, tự kiểm điểm cách đối xử đến như vậy mà nhìn lại hàng ngũ tướng tá của mình thì thê nào? Té ra các ngươi không hề nhục; các ngươi chỉ lo vui chơi, giặc đến thì ta và các ngươi đều bị bắt; ta và các ngươi đều bị mất tất cả, ta và các ngươi đều để nhục đến muôn đời; vậy bấy giờ có vui chơi được không? Cho nên các ngươi hãy nghe lời ta biết lo trước, huấn luyện quân sĩ, ai nấy đều giỏi, giết được giặc, rửa được thù, thì hạnh phúc biết bao cho ta, cho các ngươi, lại tiếng thơm lưu để nghìn đời; bấy giờ “không muốn vui chơi phỏng có được không?”.

Lập luận của chủ soái chỉ có thế. Lý lẽ cũng bấy nhiêu. Nói mất thì mới nói đến lợi ích thiết thân: mất thái ấp, bổng lộc; gia quyến bị tan, vợ con bị khốn; xã tắc tổ tông bị giày xéo, phần mộ cha mẹ bị quật lên; thanh danh chẳng còn gì, nhục để trăm năm. Nếu được thì cũng những lợi ích thiết thân ấy: thái ấp vững bền, bổng lộc đời đời:

Gia quyến, vợ con ấm êm, giai lão; tông miếu tổ tông được tế lễ, thờ cúng; danh hiệu, tên họ, sử sách lưu thơm. Có ý kiến cho rằng nói lợi ích của chủ tó” trong giai cấp thống trị như thế này là một hạn chế, mặc dù lợi ích của giai cấp thống trị bấy giò” vẫn phù hợp với lợi ích của dân tộc.

Tuy nhiên, xét cho kỹ thì nói lợi ích thiết thân như đã nói lại là đi sâu thêm một mức vì nội dung dân tộc không dừng ở lãnh thổ, nó còn bao hàm quyền sinh sống của nhân dân. Con người còn có nguồn sống: ruộng đất, bổng lộc; gia quyến, vọ” con; mồ mả tố tiên ông bà; tiếng xấu hay tiếng thơm đế đời. Nói cách khác còn có đời sống vật chất và đời sống tinh thần; ngoài miếng ăn còn có tình cảm, có văn hóa phong tục, có trước mắt và có mai sau, có trách nhiệm đối với hiện tại và đôi với lịch sử muôn đời.

Nói lợi ích cá nhân thật, nhưng lợi ích cá nhân ấy gắn liền với trách nhiệm cực kỳ trọng đại là trách nhiệm đối với sự mất còn của nước nhà, bởi vì nó được đặt ra dưới một tiền đề đáng SỢ: Nếu giặc Mông Cổ tràn sang và một giả thiết hào hùng: cỏ thề bêu dược đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai. Vậy đâu còn là quyền cá nhân ích kỷ! Đó là quyền lợi thật, nhưng đó cũng là cái xuất phát thiết thân nhất, thiêng liêng nhất, cái nền tảng gần gũi nhưng vô cùng thiết thực và vững chắc của lòng yêu nước. Lòng yêu nước sâu xa, thắm thiết luôn luôn bắt nguồn từ tình yêu làng xóm, quê hương, gia đình.

Nói chuyện mất, được là giả thiết về tương lai. Trước mắt là chuyện tướng lĩnh ham vui chơi nên lấy việc vui chơi mà nói. Nào chủ soái có ngăn cấm cái gì. Họ say mê đủ thứ: chọi gà, đánh bạc; vui thú ruộng vườn, quyến luyến vợ con; lo làm giàu, ham săn bắn; thích rượu ngon, mê tiếng hát. sỏ” dĩ phải phê phán là vì vui chơi không phải lúc. Say mê những cái đó thi làm sao chống được giặc?

Cho nên phải biếm họa cho họ thấy: cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc? Mẹo *** không thể dùng làm mưu lược nhà binh; ruộng”lắm vườn nhiều nhưng không đâu chuộc được tấm thân giặc bắt; vợ bìu con díu, lo sao được việc quân?

Tiền nhiều sao mua được đầu giặc; rượu ngon không làm giặc say chết, tiếng hát hay không làm giặc điếc tai. Nghe như có giọng hài hước nhưng tình thì rất thật, rất trang nghiêm, chừng như có nỗi khổ tâm lớn, mà vì lòng bao dung, độ lượng mênh mông, chủ soái chi đem những thứ vui chơi tầm thường đối chiếu với sức mạnh quân địch, vạch ra cái bất lực của cái trò say mê trước sức mạnh ấy, cho họ thấy rõ mà thấm thía, nghĩ suy.

Hai lần chủ soái nhắc lại: Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi phong có được không? và Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui chơi phỏng có được không”? Nhắc lại là đồng tình cho vui chơi, nhưng chỉ vui chơi sau chiến thắng. Đó không chỉ là tấm lòng thương yêu mà còn là trí “óc rộng rãi. Có phê phán, có nêu cười, nhưng hết sức bao dung và hiếu biết.

Mục đích bài hịch là thức tỉnh. Thức tỉnh kẻ đang ngủ mê. Vậy phải lay dậy nhiều lần. Lời văn trở đi trở lại, trùng điệp chồng chất, tầng tầng lớp lớp. Hai đoạn ngắn là hai tầng lập luận chồng lên nhau, cái sau ngược hẳn với cái trước. Trước là chỉ biết vui chơi, giặc đến sẽ mất hết, muốn vui chơi cũng không được. Sau là chăm lo việc binh, giặc đến đánh thắng, cái gì cũng không mất mà còn được, muốn không vui chơi cũng không được.

Ấy là lấy cái mất đối lập với cái được. Mất thì: không còn, cũng mất; bị nạn, cũng khốn; bị giày xéo, bị quật lên; bị nhục, khôn rửa, không khỏi, bại trận. Được thì: mãi mãi vững bền, đời đời hưởng thụ, được ấm êm gối chăn, được bách. niên giai lão; được muôn đời tế lễ, được thờ cúng quanh năm; kiếp này đắc chí, trăm năm về sau tiếng vẫn lưu truyền; không bị mai một, sử sách lưu thơm. Đó là đối lập chi tiết. Còn đối lập cả mỏ” đầu: Nay các ngươi và Nay ta bảo thật các ngươi; đối lập cả kết luận: dẫu các ngươi muốn vui chơi phỏng có được không? Với dẫu các ngươi không muốn vui chơi phỏng có được không?

Chọi nhau từng lời một, cụ thể, chan chát, đến phải bật ra chân lý. Trên là đối lập giữa hai đoạn với nhau. Trong mỗi đoạn cũng nhiều tầng nhiều lớp. Thử xem ở đoạn trên.

Bắt đầu là tầng một. Lặp toàn một lời phủ định: không biết: không biết lo, không biết thẹn, không biết tức, không biết căm. Lại bốn lần không biết, bốn lớp tình cảm sắp xếp từ thấp lên cao, trôn cơ sở một tình cảm nhất quán là nhục: nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn, hầu quân giặc (nhục) mà không biết tức, nghe nhạc của vua trong tiệc đãi ngụy sứ (nhục) mà không biết căm.

Tiếp theo là tầng hai: Rặt lối vui chơi phù phiếm ích kỷ, sắp xếp thành bốn lớp từ vui đùa đến thích mê: lấy chọi gà làm vui đùa, lấy đánh bạc làm tiêu khiển (lớp 1); vui thú ruộng vườn, quyến luyến vợ con (lớp 2); lo làm giàu quên việc nước, ham săn bắn quèn việc binh (lớp 3); thích rượu ngon, mê tiếng hát (lớp 4).

Tầng thứ ba: Nếu giặc Mông Cổ tràn sang. Chỉ những lời bất lực: sao đâm thủng, không thể dùng, nghìn vàng khôn chuộc, trăm sự ích chi, không mua, không đuổi, không thể, không thể.

Tầng thứ tư là hậu quả của các tình hình trên. Một lời xuyên suốt tất cả: mất, ta các ngươi đều mất. Và cũng bốn lớp nhấn đi nhấn lại bằng bốn cặp: chẳng những mà cùng: chẳng những thái ấp ta không còn, mà bổng lộc các ngươi cũng mất, chẳng những gia quyến của ta bị tan, mà vợ con các ngươi cũng khốn…

Bốn tầng, mỗi tầng bốn lớp. Lớp sau bồi thêm cho lớp trước, từ thấp lên cao, từ cạn đến sâu, từ nhẹ đến nặng, từ gần đến xa. Bốn tầng xếp thành một lập luận chặt chẽ, giản đon, cụ thể, sinh động, đập mạnh vào cảm tính, vào trái tim. Cuối cùng tổng kết lại bằng một chữ không to tướng đằng sau câu hỏi quyết định, có sức nặng như một lời quở phạt nhưng lại vẫn êm ái một giọng tâm tình: lúc bấy giờ dẫu các ngươi muốn vui chơi phỏng có được không”?

Đoạn văn tiếp theo cũng có hai tầng, mỗi tầng cũng có hai lớp. Chấm dứt tuy cũng còn là chữ không, nhưng đằng sau câu hỏi lại là chữ “có”, lại là khẳng định “phải vui chơi” vì không vui chơi cũng không được.

Lời văn ở cả hai đoạn đâu phải là lời quở trách, càng không có giọng điệu sỉ nhục. Đó là lời nhỏ to, hơn thiệt đầy bao dung và tin cậy. Người nghe không thấy mình bị vùi dập mà thấy mình vẫn được tín nhiệm, mình sẽ thức tỉnh, mình sẽ giỏi giang, mình sẽ đủ khả năng tiêu diệt quân giặc.

Phần 3 Tuy nhiên, thân mật không có nghĩa là xa rời nguyên tắc, bỏ qua trách nhiệm. Ngay ở phần trên vẫn không quên đối chiếu với nhiệm vụ, không một phút lãng quên nguy cư nước nhà bị xâm lược. Cho nên sau khi phân tích việc vui chơi, lấy đó làm điều răn, sau khi động viên tướng tá có thể làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang, chủ soái lại nêu ra mục đích cụ thể, trực tiếp của bài hịch vù vạch ra hai con đường buộc phải chọn một: Nêu biết chuyên tập sách này theo lời ta dạy bảo thì trọn đời là tôi chủ, nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy thì trọn đời là nghịch thù.

Và chủ soái giải thích luôn: Bởi giặc với ta là kể không đội trời chung, các ngươi không lo luyện tập, thì khác gì quay giáo đầu hàng, tay không chịu thua giặc, như vậy còn gì mà không thù? Còn gì mà không muôn đời để thẹn, mặt mủi nào đứng trong trời che đất chở này nữa? Cuối cùng chấm dứt bằng một câu tỏ rõ tấm lòng của chủ soái: Ta viết ra bài hịch này để các ngươi biết bụng ta.

Bụng ấy là thương yêu độ lượng, nhưng vừa ân tình, vừa cương quyết, vừa động viên vừa ép buộc, vừa khuyên lơn vừa kỷ luật. Giọng điệu là tâm tình nhưng lời đã là ra lệnh: nêu nghe là tôi chủ, nếu không biết nghe là nghịch thù. Người nghe vì tình không thể cảm thông, vì lý không thể không bị thuyết phục.

Trong văn học nước nhà không mấy bài hịch có giọng tình cảm như bài này. Lý lẽ không cao xa mà gần gũi, không trừu tượng mà cụ thể, lấy người lấy việc mà nêu gương, thu phục chứ ít dùng giảng giải, thuyết lý, nhưng tất cả đều thấm đượm ân tình, đạo nghĩa của chủ soái theo tinh thần phụ tử chi binh. Bài hịch có những hạn chế nhất định, nhưng chính nhờ tinh thần ấy mà có một sức lay động sâu xa, mãnh liệt.

Khi được truyền ra rộng rãi, nó đã làm cho toàn quân toàn dân nức lòng hăng hái giết giặc, phối hợp với tác dụng của lời kêu gọi Diên Hồng (đầu năm 1285), đưa đến việc thích vào tay hai chữ Sát Thát và nâng cao ngất trời hào khí đời Trần. Cho đến ngày nay, bài hịch vẫn còn giữ nguyên sức lay động ấy. Nó vẫn là một bài học sẵn sàng chiến đấu và quyết tâm chiến thắng, một lời nhắn nhủ yêu nước thương nhà muôn đời không thôi thúc giục.


Bài văn phân tích tác phẩm “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn số 14

Bài văn phân tích tác phẩm “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn số 15

Triều đại nhà Trần là mốc vàng son của lịch sử Việt Nam. Thời kì ấy không chỉ có các vị vua anh minh mà còn có những vị tướng lĩnh tài ba góp phần làm nên những chiến thắng lịch sử. Trong đó có Trần Quốc Tuấn vị tướng tài ba giúp nhân dân đánh thắng quân Mông – Nguyên xâm lược. Không chỉ là một nhà quân sự giỏi mà Trần Quốc Tuấn cũng giỏi văn chương. “Hịch tướng sĩ” là tác phẩm thể hiện cái tài ấy của ông.

“Hịch tướng sĩ” được viết trước khi cuộc chiến kháng Mông – Nguyên xâm lược lần thứ hai diễn ra. Từ đó bài Hịch kêu gọi, cổ vũ động viên các tướng sĩ, quân lính chung sức đồng lòng chống giặc đồng thời chăm chỉ đọc “Binh thư yếu lược”.Mở đầu bài Hịch, Trần Quốc Tuấn nêu các gương sáng trong lịch sử. “Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước.

Kính Đức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thái Sung; Cảo Khanh một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc.” Có người làm tướng, có người làm quan nhỏ nhưng tất cả sẵn sàng chết vì vua, vì chủ, vì đất nước, không sợ hiểm nguy, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Qua đó tác giả muốn khích lệ tinh thần, lòng trung quân ái quốc của các tướng sĩ.

Sau khi nêu gương các tướng, các quan công yêu nước lịch sử, nhà quân sự tài ba tỏ thái độ căm ghét kẻ thù và bày tỏ nỗi lòng của mình. Trần Quốc Tuấn nêu lên tội ác của giặc: “Đi lại nghênh ngang” “uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình” “đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ”, “đòi ngọc lụa, thu bạc vàng, vét của kho”. Bằng cách sử dụng những hình ảnh ẩn dụ, so sánh, giọng điệu mỉa mai, châm biếm, nhịp điệu dồn dập liên tiếp, căm phẫn dồn nén lột tả sự ngang ngược , tham lam, tàn bạo của kẻ thù.

Từ đó, Trần Quốc Tuấn bày tỏ nỗi lòng của mình : “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.” Tác giả bày tỏ nỗi niềm căm tức, lo lắng, đau xót cho đất nước, căm phẫn kẻ thù, sẵn sàng hi sinh tất cả vì đất nước.

Bày tỏ nỗi niềm căm phẫn kẻ thù đồng thời bài Hịch cũng chỉ ra, phê phán thái độ và hành động sai trái của các tướng sĩ, để từ đó chỉ ra những việc nên làm. Chỉ ra những hành động tầm thường, thiếu trách nhiệm của tướng sĩ : “Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái thường đãi yến sứ ngụy mà không biết căm. Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc *** làm thích.

Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm” bằng giọng điệu mỉa mai có phần khiển trách. Vì hậu quả sẽ dẫn đến nước mất nhà tan. Qua đó Trần Quốc Tuấn muốn phê phán nghiêm khắc lối sống cầu an hưởng lạc, thờ ơ vô trách nhiệm của tướng sĩ.

Bởi vậy Trần Quốc Tuấn đưa ra giả thiết đối lập với hành động sai trái của tướng sĩ qua việc đọc “Binh thư yếu lược” do ông soạn ra. “ Phải huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên” tích cực trau dồi binh thư, rèn luyện chăm chỉ,… thì giữ vững đất nước, tiếng thơm lưu truyền, gia đình hạnh phúc. Tác giả đưa ra hai đường lối đối lập để nêu cao tinh thần ý chí tự giác, tích cực rèn luyện, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh vì đất nước.

Qua bài “Hịch tướng sĩ”, người đọc thấy cảm phục và trân trọng Quốc Công Tiết Chế Trần Quốc Tuấn khi không chỉ là nhà quân sự tài giỏi mà còn yêu thương, lo lắng, quan tâm tới tướng sĩ thứ bậc thấp hơn để từ đó thấy được tình yêu đất nước to lớn trong ông.


Bài văn phân tích tác phẩm “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn số 15

Bài văn phân tích tác phẩm “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn số 16

Hơn bảy thế kỉ đã trôi qua, kể từ ngày Hịch tướng sĩ được công bố, âm hưởng hào hùng của nổ như vẫn còn âm vang trong lòng mỗi người dân đất Việt, gieo vào lòng họ những cảm xúc mãnh liệt và niềm tự hào sâu sắc.

Với trọng trách mà dân tộc giao phó đè nặng trên đôi vai, với nhiệt tình yêu nước cháy bỏng, Trần Quốc Tuấn nung nấu một khát vọng cao cả: chiến thắng giặc thù, giữ yên giang sơn bờ cõi. Để khơi dậy ngọn lửa yêu nước và động viên ý chí chiến đấu trong ba quân tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn đã ra lời kêu gọi tướng sĩ bằng một bài Hịch bất hủ: Dụ Chư tỳ tưởng hịch vân – còn gọi là Hịch tướng sĩ văn, áng hùng văn của mọi thời đại.

Chất hùng văn của Hịch tướng sĩ được tạo nên từ nghệ thuật trữ tình hùng biện và tình cảm mãnh liệt, nồng cháy trong tim người anh hùng dân tộc. Tình cảm sục sôi và nhiệt tình yêu nước cháy bỏng, ý chí quyết chiến quyết thắng giặc thù làm nên chất nhân văn cao đẹp của bài hịch.

Tình cảm ấy trước hết là lòng căm thù giặc sâu sắc, nỗi đau xót chân thành và mãnh liệt khi thấy đất nước bị giày xéo, tàn phá. Trần Quốc Tuấn đã lột tả bản chất tham lam, hống hách, tàn bạo của bọn giặc: Đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, đòi ngọc lụa thu bạc vàng. Thái độ của Trần Quốc Tuấn vừa căm giận vừa khinh bỉ. Để tỏ lòng căm giận và khinh bỉ của mình, tác giả đã sử dụng các hình ảnh ẩn dụ để chỉ bọn giặc, coi chúng như những loài cầm thú: cú diều, dê chó, hổ đói.

Trần Quốc Tuấn đã thấu suốt dã tâm của giặc, nhận thức rõ hiểm họa của Tổ quốc, nguy cơ của sự bại vong. Đoạn văn không những tiêu biểu cho lòng căm thù giặc, mà còn tiêu biểu cho tinh thần cảnh giác của dân tộc. Sau khi vạch trần bản chất của bọn giặc, Trần Quốc Tuấn trực tiếp bày tỏ nỗi lòng của mình: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng”.

Nếu như cả bài hịch là hình tượng cái tôi trữ tình yêu nước vĩ đại của Trần Quốc Tuấn thì đoạn văn này lại tiêu biểu nhất cho tình cảm cao đẹp ấy. Với bút pháp khoa trương ít nhiều có tính chất ước lệ nhưng thống thiết, hào sảng, phù hợp với ngôn ngữ hùng biện của thể hịch văn, vì thế có sức ngân vang lớn.

Đoạn văn đã thể hiện đậm nét trạng thái sục sôi, hận thù bỏng rát của một trái tim vĩ đại, chất chứa cảm xúc lớn với vận mệnh đất nước, sự tồn vong của dân tộc, số phận của nhân dân. Tất cả các trạng thái cảm xúc ấy đều được đẩy tới cực điểm. Căm giận thì sục sôi, đau xót thì mãnh liệt: Quên ăn; mất ngủ; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa.

Từ trái tim vĩ đại sục sôi nhiệt huyết đến ý chí quả quyết muốn hành động, hi sinh cứu nước, là sự phát triển phù hợp với chuyển biến tâm tư tình cảm của người anh hùng. Sự phát triển của cái tôi trữ tình yêu nước gói gọn trong những ngôn từ: Chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù.

Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gối trong da ngựa ta cũng vui lòng. Chưa bao giờ trong văn học Việt Nam lòng căm thù giặc và nỗi đau xót trước vận mệnh dân tộc lại được biểu hiện sâu sắc, mãnh liệt và xúc động lòng người đến thế! Trực tiếp bày tỏ nỗi lòng, Trần Quốc Tuấn đã là một tấm gương sáng về lòng trung quân ái quốc.

Từ căm thù cháy bỏng đến hành động giết giặc cứu nước là tất yếu và phải được đặt lên hàng đầu, thà chết chứ không chịu lùi bước. Đó là khí phách của một dân tộc anh hùng. Hơn ai hết, Trần Quốc Tuấn hiểu rõ rằng ý chí quyết chiến quyết thắng, sẵn sàng xả thân vì nước của vị thống soái toàn quân là yếu tố rất quan trọng, nhưng chưa đủ để làm nên chiến thắng, cần có một sức mạnh tổng hợp. Sức mạnh ấy phải được tạo nên từ sự đồng lòng nhất chí, từ ý chí quyết chiến, quyết thắng giặc thù của cả dân tộc.

Để động viên tới mức cao nhất tinh thần của tướng sĩ, bên cạnh việc nêu gương sáng của các trung thần nghĩa sĩ bỏ mình vì nước trong sử sách, bày tỏ nỗi lòng của mình, Trần Quốc Tuấn còn khéo khích lệ tướng sĩ. Đầu tiên ông nhắc lại mối ân tình của mình với tướng sĩ: không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng; đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa. Thật hiếm có vị chủ tướng nào lại chăm sóc tướng sĩ ân cần chu đáo đến thế! Điều cảm kích hơn là tình cảm chan hòa hiếm có giữa ông với tướng sĩ lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười.

Nhắc lại ân tình ấy, ông như muốn nhắc nhở họ: ta đôi với các ngươi như vậy sao các ngươi lại thờ ơ, bàng quang đến vô ơn bội nghĩa: thấy chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn… nghe nhạc thái thường để đãi yến mà không biết căm. Đồng thời ông còn chỉ ra cho họ thấy nỗi nhục của chính bản thân họ: làm tướng triều đình mà phải hầu quân giặc mà không biết tức.

Trần Quốc Tuấn đã thẳng thắn và nghiêm khắc phê phán thái độ bàng quan thờ ơ, sự ham chơi hưởng lạc của các tướng sĩ, từ những thú vui tầm thường vô bổ: đánh bạc, chọi gà, thích rượu ngon, … đến sự vun vén cá nhân ích kỉ: làm giàu, quyến luyến vợ con. Tác giả đã đối lập từng quan điểm sống với khả năng đánh đuổi kẻ thù để vạch ra trước mắt tướng sĩ nguy cơ thất bại đáng sợ với những hậu quả ghê gớm khôn lường, gắn với quyền lợi của tướng sĩ và của dân tộc.

Tóm lại chỉ có phát huy ý thức trách nhiệm, danh dự của người làm tướng, từ bỏ lối sống cầu an hưởng lạc, chuẩn bị hành động đánh giặc giữ nước mới mong báo đáp ân tình với chủ tướng mới bảo vệ được nền độc lập tự chủ của dân tộc. Không làm được như thế chỉ là một kết cục bi thảm: Nước mất, nhà tan, thanh danh mai một, tiếng xấu để đời. Tình cảm của người anh hùng trào dâng đến đỉnh điểm!

Bên cạnh tình cảm sục sôi mãnh liệt là nghệ thuật giàu sức biểu cảm. Nghệ thuật ấy được thể hiện ở cách lập luận, giọng điệu, lời văn. Cách lập luận của bài hịch hết sức chặt chẽ với sự kết hợp cả lí trí và tình cảm để thuyết phục tướng sĩ. Trần Quốc Tuấn đã nói đến ân tình sâu nặng của ông với tướng sĩ, kêu gọi tướng sĩ vì quan hệ tốt đẹp đó mà nâng cao trách nhiệm và danh dự của kẻ làm tướng, chung lòng chung sức với ông trong cuộc chiến.

Trần Quốc Tuấn cũng nói tới tình cảm nhân bản thân thiết, sâu xa, cao quý, thiêng liêng nhất của mỗi con người (gia quyến, vợ con, mồ mả cha ông, tông niếu xã tắc) sẽ có kết cục bi thảm như thế nào nếu không chống nổi giặc ngoại xâm.

Giọng điệu của bài Hịch rất phong phú và linh hoạt: khi thì ôn tồn, thống thiết nghĩa nặng tình sâu, khi thì chì chiết chua cay, trách mắng nghiêm khắc, khi thì mỉa mai châm chọc. Cùng với giọng điệu là lời văn giàu cảm xúc, giàu sắc thái biểu cảm, vừa hùng hồn, vừa khúc chiết. Thêm vào đó là sự xuất hiện cái tôi trữ tình yêu nước vĩ đại Trần Quốc Tuấn.

Như vậy nghệ thuật trong Hịch tướng sĩ là nghệ thuật trữ tình hùng biện rất giàu cảm xúc, hình tượng và đầy sức thuyết phục, xứng đáng là một kiệt tác văn chương yêu nước bất hủ của thời đại chống Mông Nguyên nói riêng và mọi thời đại nói chung.

Hịch tướng sĩ đi vào lịch sử văn học như một trong những áng hùng văn tiêu biểu nhất, một bản anh hùng ca yêu nước bất diệt.


Bài văn phân tích tác phẩm “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn số 16

Bài văn phân tích tác phẩm “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn số 17

Nhắc tới Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là chúng ta nhắc tới một vị tướng uy dũng, văn võ toàn tài và có công rất lớn trong công cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông thắng lợi. Có thể nói, ông là minh chứng cho sự hội tụ hào khí Đông A của triều đại nhà Trần. Đoán trước được lòng quyết tâm phục thù trở lại xâm lược lần hai của quân Nguyên, Quốc công tiết chế Hưng Đạo Vương đã chủ động mở cuộc duyệt binh lớn ở Đông Thăng Long vào tháng 9 năm 1284 và công bố bài Hịch “Dụ chư tì tướng hịch văn” (tức Hịch tướng sĩ).

Mục đích của bài hịch là khích lệ, kêu gọi tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu của tướng sĩ nhà Trần đồng lòng dốc sức nhất tề đứng lên chống lại quân xâm lược; đồng thời kêu gọi các tướng sĩ ra sức học tập cuốn “Binh gia diệu lí yếu” (Binh gia yếu lược) do chính ông biên soạn để chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc chiến đấu chống quân Nguyên lần hai. Bài Hịch không những có giá trị lịch sử quan trọng mà còn là một tác phẩm văn học trung đại độc đáo của thơ văn Lý – Trần thời kì đó.

Hịch là thể văn nghị luận thời xưa, thường được vua chúa, tướng lĩnh hoặc thủ lĩnh một phong trào dùng để cổ động, thuyết phục hoặc kêu gọi đấu tranh chống thù trong giặc ngoài. Hịch thường được viết theo hình thức văn biền ngẫu, kết cấu chặt chẽ, lý lẽ sắc bén, dẫn chứng thuyết phục, giọng văn hùng hồn.

Cấu trúc chung của bài Hịch thường gồm bốn phần nhưng vẫn có thể thay đổi linh hoạt cho phù hợp với mục đích và nghệ thuật lập luận của tác giả. Bài “Hịch tướng sĩ” có những sáng tạo linh hoạt trong cấu trúc, bao gồm có hai phần: nêu vấn đề và giải quyết vấn đề. Tuy được viết theo thể Hịch nhưng đây là áng văn chính luận xuất sắc, lời văn thống thiết, hình ảnh giàu biểu cảm, mang đậm chất trữ tình.

Mở đầu bài Hịch, với một giọng điệu trò chuyện, tác giả đã nêu lên một loạt các tấm gương “trung thần nghĩa sĩ” đã dũng cảm xả thân vì nước, vì chủ trong lịch sử từ quá khứ xa xưa (Hán, Đường) cho tới “mới đây” (Tống, Nguyên) mà ai cũng biết. Cách nêu gương như vậy, một mặt làm tăng thêm tính thuyết phục về một chân lí phổ biến trong xã hội ở mọi thời: đời nào cũng có những anh hùng nghĩa sĩ tiết liệt sẵn sàng bỏ thân để vì nước; đồng thời tác động tới nhận thức của các tướng sĩ : khơi dậy ý thức trung thành, khéo léo nhắc nhở về bổn phận, trách nhiệm của bậc nam nhi sinh ra trong thời chiến.

Đoạn văn tiếp theo, từ việc nêu các tấm gương sáng trong sử sách, tác giả chỉ ra tình hình đất nước hiện nay. Với một giọng điệu xót xa, đau đớn, căm phẫn ông đã tái hiện những sự việc đang diễn ra ở đất nước ta dưới vó ngựa xâm lăng của quân Nguyên Mông, khiến cho bất cứ những người dân yêu nước nào cũng phải ngậm ngùi, đau xót: “… Ta cùng các ngươi sinh phải thời loạn lạc, lớn gặp buổi gian nan.

Ngó thấy sứ giả đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa,để thỏa lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn. Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai vạ về sau!”.

Người đọc dễ dàng nhận thấy, dưới ngòi bút của tác giả, ông đã thú vật hóa chân dung và bản chất của bọn giặc, khiến bọn chúng hiện lên vừa đớn hèn nhu nhược, vừa tham lam ích kỉ, vừa mọi rợ, tàn ác đến mất hết tính người. Lời văn tràn đầy niềm phẫn uất, căm tức đến tuyệt đỉnh, bộc lộ tâm thế nhất quyết không đội trời chung với giặc và ẩn sau đó là khí thế chiến đấu, tinh thần yêu nước mãnh liệt, quật cường của vị chủ tướng thống lĩnh đại quân.

Tấm lòng yêu nước nồng nàn của Trần Quốc Tuấn được thể hiện rõ nhất qua hai câu văn: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”.

Các câu văn được viết theo hình thức thể văn biền ngẫu, câu văn ngắn dài sóng đôi, kết hợp với giọng điệu dồn dập, gấp gáp đã thể hiện được lòng căm thù giặc, khí thế anh hùng dũng liệt và tinh thần chiến đấu mạnh mẽ của tác giả. Ông nguyện xả thân, không tiếc thân mình, sống chết vì đất nước. Ta đọc ở đây một trách nhiệm công dân cao độ, một ý chí khát vọng lập công mạnh mẽ của một bậc trượng phu có lý tưởng sống và chiến đấu cao đẹp, thiêng liêng: quyết tử cho tổ quốc quyết sinh.

Tiếp đến tác giả khơi dậy mối ân tình của mình đối với các tướng sĩ. Có thể nói, đối với các tướng sĩ dưới trướng của ngài, Trần Quốc Tuấn hiện lên như một người cha lớn hết lòng quan tâm, yêu thương, chở che, đùm bọc: “… không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm; quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng; đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa”.

Thậm chí trong loạn lạc thì cùng san sẻ, gánh vác hiểm nguy, cùng nhau sống chết; lúc thời bình thì cùng nhau vui cười. Mối ân tình đó được ông ví như Vương Công Kiên, Cốt Đãi Ngột Lang ngày trước. Đây là cách khéo léo của Trần Quốc Tuân, khi ông lấy chữ “Tình” ra để mà thức tỉnh quân sĩ, từ đó nhắc nhở họ có ý thức, trách nhiệm đối với chủ tướng, vua tôi.

Sau khi nói về “đạo thần chủ”, tác giả chuyển sang phê phán, trách móc thái độ và hành động thờ ơ, vô trách nhiệm của các tướng sĩ trước tình hình nguy nan của đất nước, của chủ mình. Ông đã phân tích, chỉ ra rất nhiều những sự hưởng thụ cá nhân ích kỉ, chỉ biết trốn tránh trách nhiệm đối với đất nước của các tướng sĩ: nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức; nghe nhạc thái thường để đãi yến ngụy sứ mà không biết căm.

Hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển, hoặc vui thú vườn ruộng, quyến luyến vợ con… Để từ đó, tác giả chỉ ra hai viễn cảnh trái ngược nhau. Thứ nhất, nếu các tướng sĩ cứ có thái độ và hành động bàng quang, vô trách nhiệm với vận mệnh của đất nước thì: mất đi tài sản đất đai, gia đình vợ con tan tác chia lìa, xã tắc tổ tông bị giày xéo; tính mạng không những không giữ được mà thanh danh còn ô uế đến muôn đời.

Nhưng ngược lại, nếu các tướng sĩ chăm chỉ huấn luyện, “tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ” thì chẳng những đền được nợ nước thù nhà (bêu đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai) mà còn đem lại lợi ích cho bách gia trăm họ, cho bản thân, gia đình đến muôn đời (Thái ấp ta mãi vững bền; mà bộc lộc các ngươi cũng đời đời hưởng thụ; chẳng những gia quyến của ta được êm ấm gối chăn, mà vợ con các ngươi cũng được bách niên giai lão… tên họ các ngươi cũng được sử sách lưu thơm).

Nghệ thuật tương phản đã cho thấy hai viễn cảnh đối ngược nhau, Trần Quốc Tuấn đã để cho các tướng sĩ tự chiêm nghiệm, suy ngẫm về sự mất – được, hại – lợi, sáng – tối mà tự chọn cho mình một đường đi đúng đắn.

Kết thúc bài Hịch, tác giả nêu lên một tư tưởng giáo dục, một nhận thức đúng đắn sâu sắc, cụ thể, đó là “đạo thần chủ”. Yêu nước, trung thành với chủ phải được thể hiện bằng hành động, chăm chỉ tập luyện binh pháp và rèn luyện binh thư. Còn nếu lười biếng, trốn tránh tập luyện, trái lời dạy bảo thì coi như nghịch thù.

Đây không chỉ là lời tuyên chiến mạnh mẽ với giặc mà còn là lời tuyên chiến, bác bỏ với mọi tư tưởng đầu hàng, thỏa hiệp đình chiến. Thể hiện lòng quyết tâm gang thép, tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, cháy bỏng không gì thay đổi được ở vị tướng tài ba Trần Quốc Tuấn.

Về mặt nghệ thuật, có thể nói bài Hịch đã đạt tới trình độ mẫu mực của thể văn chính luận. Nghệ thuật lập luận chặt chẽ, lý lẽ sắc bén, dẫn chứng thuyết phục, có lớp lang, theo trình tự tăng tiến cho tới khi kết thúc tác phẩm. Giọng văn biến đổi linh hoạt: khi thì nhẹ nhàng trò chuyện tâm tình thân mật (đoạn 1); khi lại đau xót uất ức, căm hờn (đoạn 2); lúc lại hào sảng, tươi vui (đoạn 3); khi lại nghiêm khắc, rắn rỏi (đoạn 3 và đoạn cuối).

Ngoài ra, bài Hịch còn sử dụng rất tài tình thể văn biền ngẫu với các cặp câu cân xứng nhịp nhàng, đăng đối hô ứng nối tiếp nhau trong văn bản, giúp ý tứ được tung hứng tài tình, thắt buộc chặt chẽ, dẫn dắt người đọc đến mục đích cuối cùng của người viết. Phép trùng điệp, liệt kê kết hợp với các câu hỏi tu từ càng làm tăng thêm sức biểu cảm cho bài hich.

Bên cạnh đó, ngôn ngữ hình ảnh bài hịch cũng rất phong phú, sinh động, giàu sức gợi (khi nói về bọn giặc, tác giả sử dụng ngôn ngữ vật hóa: uốn lưỡi cú diều, đem thân dê chó, đem thịt mà nuôi hổ đói…).  Và trong bài, tác giả cũng sử dụng khá nhiều những điển cố, điển tích những rất dễ hiểu, hài hòa, tự nhiên…Tất cả đã góp phần làm nên thành công của bài Hịch.

Tóm lại, “Hịch tướng sĩ” là một văn bản không những có ý nghĩa lịch sử: phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược, thể hiện lòng căm thù giặc, ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân dân ta trong công cuộc bảo vệ biên cương, bờ cõi, mà văn bản còn là một tác phẩm văn học, một áng văn chính luận mẫu mực, bậc thầy, rất xứng đáng là “áng thiên cổ hùng văn” của muôn đời.


Bài văn phân tích tác phẩm “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn số 17

Bài văn phân tích tác phẩm “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn số 18

Trần Quốc Tuấn (1231 – 1300) – người đã được vua Trần giao cho thống lĩnh quân đội, đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên thắng lợi vẻ vang. Người nổi tiếng là biết trọng kẻ sĩ thu phục nhân tài. Trần Quốc Tuấn là một người anh hùng dân tộc, nhà quân sự thiên tài, lòng yêu nước của ông nước thể hiện rõ qua văn bản “Hịch tướng sĩ”, văn bản khích lệ tướng sĩ học tập cuốn “Binh thư yếu lược” do ông biên soạn.

Trước sự lâm nguy của đất nước, lòng yêu nước thiết tha của vị chủ soái Trần Quốc Tuấn được thể hiện ở lòng căm thù sục sôi quân cướp nước. Ta hãy nghe ông kể tội ác của giặc: “Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thỏa lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, vét của kho có hạn, thật khác nào đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai họa về sau!”.

Tác giả gọi giặc là “cú diều, dê chó, hổ đói” không chỉ vạch trần sự tham lam, độc ác mà còn vạch rõ dã tâm xâm lược của giặc; thể hiện sự khinh bỉ, căm ghét tột độ. Không chỉ kể tội ác của giặc mà Trần Quốc Tuấn còn bày tỏ nỗi đau xót trước nỗi nhục của quốc thể, nỗi đau đớn xót xa.

Đó là biểu hiện của sự sẵn sàng xả thân để rửa nhục cho nước, để bảo vệ nền độc lập của dân tộc, khát vọng nước xả thân cho nước: “Chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng”.

Qua bài hịch, Trần Quốc Tuấn không chỉ thể hiện lòng căm thù sục sôi quân cướp nước mà còn thể hiện ý chí quyết chiến, quyết thắng, quyết xả thân cho độc lập dân tộc. Ông vạch ra hai con đường chính – tà cũng là một con đường sống chết để thuyết phục tướng sĩ. Trần Quốc Tuấn biểu lộ một thái độ dứt khoát: hoặc là địch hoặc là ta, không có vị trí chông chênh cho những kẻ bàng quan trước thời cuộc.

“Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung, các ngươi cứ điềm nhiên không biết rửa nhục, không lo trừ hung, không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay mà không chịu thua giặc. Nếu vậy rồi đây sau khi giặc đã dẹp yên, muôn đời để thẹn, há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa?”, đó là lời động viên tới mức cao nhất ý chí và quyết tâm chiến đấu của mọi người.

Tình yêu thương chân thành, tha thiết dành cho tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đều được xuất phát từ lòng nhân hậu từ lòng yêu nước. Với quân sĩ dưới quyền, Trần Quốc Tuấn luôn đối xử như với con mình, với những người quen: “Các ngươi cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm; quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng; đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa; lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười”.

Đó là mối ân tình giữa chủ và tướng nhằm khích lệ ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người đối với lẽ vui tôi cũng như tình cốt nhục. Chính tình yêu thương tướng sĩ chân thành tha thiết mà Trần Quốc Tuấn đã phê phán những biểu hiện sai, đồng thời chỉ ra cho tướng sĩ những hành động đúng nên theo, nên làm. Những hành động này đều xuất phát từ ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược.

Đó là sự băn khoăn trước tình trạng tướng sĩ không biết lo lắng cho đất nước: không thấy lo, thấy thẹn khi nhà vua và đất nước bị kẻ thù làm nhục; chỉ biết vui thú tiêu khiển, lo làm giàu, ham săn bắn, thích rượu ngon, mê tiếng hát,…

Nguy cơ thất bại rất lớn khi có giặc Mông Thái tràn sang: “cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo *** không thể dùng làm mưu lược nhà binh; dẫu rằng ruộng lắm, vườn nhiều, tấm thân quí nghìn vàng khôn chuộc; vả lại vợ bìu con díu; việc quân cơ trăm sự ích chi; tiền của tuy nhiều không mua được đầu giặc, chó săn tuy khỏe không đuổi được quân thù, chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai.

Lúc bây giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào!”. Chính lòng yêu nước mà Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra cho tướng sĩ những hành động nên làm: “Nay ta bảo thật các ngươi: nên nhớ câu “đặt mồi lửa vào giữa đống củi là nguy cơ, nên lấy điều “kiềng canh nóng mà thổi rau nguội” “làm run sợ, huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên”.

Bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta nói chung và Trần Quốc Tuấn nói riêng trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Nó được thể hiện qua lòng căm thù giặc, ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược và những tình cảm dành cho tướng sĩ dưới trướng.


Bài văn phân tích tác phẩm “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn số 18

Tác phẩm “Hịch tướng sĩ” thành công cả về nội dung và nghệ thuật biểu hiện sâu sắc nhất lòng yêu nước của một vị chủ tướng có tâm, suốt đời tận tụy vì sự nghiệp giải phóng dân tộc đồng thời khơi gợi lòng yêu nước và ý thức trách nhiệm trong mỗi con người. Hy vọng với một số bài soạn mẫu ở trên sẽ giúp các bạn hiểu hơn về tác phẩm.

Đăng bởi: Tuyết Đinh Thị

ALONGWALKER Singapore: The channel to explore experiences of global youth ALONGWALKER Philippines: The channel to explore experiences of global youth ALONGWALKER Indonesia: Saluran untuk mengeksplorasi pengalaman para pemuda global ALONGWALKER Malaysia: Saluran untuk menjelajahi pengalaman global belia ALONGWALKER Japan: 発見・体験、日本旅行に関する記事 ALONGWALKER Thailand: ช่องทางในการสำรวจประสบการณ์ของเยาวชนระดับโลก