Hà Nội

Hà Nội có gì?

Hà Nội, thủ đô nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học công nghệ của cả nước. Nằm hai bên bờ sông Hồng, giữa vùng đồng bằng Bắc bộ trù phú, Hà Nội có được vị thế thuận lợi để trở thành nơi giao lưu thương mại trong nước và quốc tế. Là thủ đô của đất nước Việt Nam có lịch sử hàng nghìn năm văn hiến, Hà Nội đã bảo tồn được rất nhiều di tích văn hóa nổi tiếng, với hơn 600 đền, chùa. Mặc dù một số di tích bị mai một đi cùng với thời gian và do chiến tranh, Hà Nội vẫn còn giữ được nhiều danh lam thắng cảnh hấp dẫn du khách thập phương. Hà Nội có gì? Hãy cùng chúng tôi khám phá những địa điểm di tích, thắng cảnh đẹp tại Hà Nội trong bài viết sau đây nhé.

Hồ Tây – Hà Nội

Hồ Tây là hồ nước tự nhiên nằm ở phía Tây Bắc nội thành Hà Nội với diện tích khoảng 500ha, có đường vòng quanh hồ dài gần 20km. Ngành địa lý lịch sử đã chứng minh, Hồ Tây là hồ ngoại sinh, có dạng lòng chảo, là một đoạn của sông Hồng xưa trong quá trình ngưng đọng lại sau khi sông đổi dòng chảy. Hồ Tây trước đây còn có các tên gọi khác như Đầm Xác Cáo, Hồ Kim Ngưu, Lãng Bạc, Dâm Đàm, Đoài Hồ. Mỗi tên gọi đều gắn với sự tích về nguồn cội của hồ Tây huyền thoại.

hà nội có gì?

Hồ Tây – Hà Nội

Sách Tây Hồ chí ghi rằng, Hồ Tây có từ thời Hùng Vương, bấy giờ nơi đây là một bến nằm giáp sông Hồng thuộc động Lâm Ấp, nên được gọi là bến Lâm Ấp thuộc thôn Long Đỗ. Ở vào thời Hai Bà Trưng, bến này thông với sông Hồng, bao bọc quanh hồ là rừng cây gồm nhiều loại thực vật chính như tre ngà, bàng, lim, lau sậy, gỗ tầm cùng một số loài thú quý hiếm sinh tồn.

Phía Tây hồ Tây ngày nay vẫn còn dấu vết nhiều làng cổ. Mỗi ngôi làng ở đây đều ít nhiều gắn với một huyền tích lịch sử. Làng Nghi Tàm, quê hương nhà thơ “Bà huyện Thanh Quan”. Làng Xuân Tảo với đền Sóc thờ Thánh Gióng. Làng Trích Sài có chùa Thiên Niên thờ bà tổ nghề dệt lĩnh. Làng Thụy Khuê có chùa Bà Ðanh. Làng Nhật Tân với vườn hoa đào nổi tiếng. Có một nơi mà nhiều du khách muốn tới thăm là chùa Trấn Quốc. Chùa Trấn Quốc nằm trên bán đảo nhỏ giữa mênh mang sóng nước ngay bên đường Thanh Niên, con đường đẹp ngăn cách giữa hồ Tây và hồ Trúc Bạch. Đây là một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, có từ thế kỷ VI thời Lý Nam Đế. Hoà Thượng Thích Thanh Nhã, trụ trì chùa Trấn Quốc cho biết: “Vào năm 541-548 khởi đầu được gọi là chùa Khai Quốc, chùa được xây dựng ngoài bãi sông Hồng, sau này vào đời Hậu Lê ( thế kỷ 17) thì chuyển vào đây. Trước đây nơi này được gọi là bãi cá vàng, mà vua chúa thời xưa du xuân,du thuỷ, sau đó các vị cao tăng về đây tu hành. Ngôi chùa tính đến nay có lịch sử 1440 năm. Cư dân sinh sống ở đây rất thưa thớt, họ sống chủ yếu bằng nghề săn bắt thú rừng, tôm, cua, cá và trồng tỉa cây cối. Bên cạnh đó thì bờ phía Đông có Nha Lâm Động (nay là phố Yên Ninh, Hòe Nhai), bờ phía Nam có Bình Sa Động (thời Lý đổi là Giáp Cơ Xá (nay thuộc quận Hoàn Kiếm).

Ở thủ đô Hà Nội, hồ Tây là khu vực có hệ thống di sản, di tích đậm đặc. Chỉ riêng khu vực quanh hồ Tây hiện còn có hơn 20 ngôi đình, đền, chùa được xếp hạng với nhiều di tích nổi tiếng. Cứ mỗi khi xuân về, những di tích ấy thu hút hàng vạn khách thập phương trong và ngoài nước đến vãn cảnh, tham quan lễ chùa. Với lợi thế vị trí độc đáo, hồ Tây gần như bao trọn không gian văn hóa lịch sử gắn liền với nhiều truyền thuyết, các công trình nghệ thuật, kiến trúc, gắn với lịch sử ngàn năm thủ đô Hà Nội. Đây cũng là lý do mà nhiều du khách tới đây tìm hiểu khám phá hồ Tây. Với nhiều du khách, điều thích thú nhất là được tham quan hồ Tây bằng xe điện chạy quanh hồ. Ông Nguyễn Quang Lộc, nhà ở Quận Hai Bà Trưng cho biết: “Trước đây tôi chỉ nghe nói hồ Tây rộng, chứ chưa đi hết. Nhưng nay đi xe điện quanh hồ tôi biết thêm nhiều điều, hiểu thêm các làng nghề, các di tích, đình, chùa xung quanh hồ Tây”.

hà nội có gì?

Hồ Tây – Hà Nội

Ở thủ đô Hà Nội, hồ Tây là khu vực có hệ thống di sản, di tích đậm đặc. Chỉ riêng khu vực quanh hồ Tây hiện còn có hơn 20 ngôi đình, đền, chùa được xếp hạng với nhiều di tích nổi tiếng. Cứ mỗi khi xuân về, những di tích ấy thu hút hàng vạn khách thập phương trong và ngoài nước đến vãn cảnh, tham quan lễ chùa. Với lợi thế vị trí độc đáo, hồ Tây gần như bao trọn không gian văn hóa lịch sử gắn liền với nhiều truyền thuyết, các công trình nghệ thuật, kiến trúc, gắn với lịch sử ngàn năm thủ đô Hà Nội. Đây cũng là lý do mà nhiều du khách tới đây tìm hiểu khám phá hồ Tây. Với nhiều du khách, điều thích thú nhất là được tham quan hồ Tây bằng xe điện chạy quanh hồ. Ông Nguyễn Quang Lộc, nhà ở Quận Hai Bà Trưng cho biết: “Trước đây tôi chỉ nghe nói hồ Tây rộng, chứ chưa đi hết. Nhưng nay đi xe điện quanh hồ tôi biết thêm nhiều điều, hiểu thêm các làng nghề, các di tích, đình, chùa xung quanh hồ Tây”.

Hồ Tây ngày nay còn là lá phổi xanh của thành phố. Hồ Tây không chỉ đẹp bởi mặt nước xanh mênh mông, mà còn là vẻ đẹp thơ mộng bởi sắc tím của hoa bằng lăng, vẻ rực rỡ của những cánh hoa phượng hồng mỗi độ hè về. Mặt nước hồ luôn phảng phất những làn gió mát, khiến tâm hồn con người thêm thư thái. Với không gian như thế, hồ Tây thực sự là nơi đến thư giãn của nhiều người Hà Nội.

Từ chốn rừng rậm, đầm lầy hoang hóa, qua công lao khai khẩn xây dựng của bao thế hệ, trong đó có sự đóng góp rất lớn của một số vương phi các triều đại, Hồ Tây đã trở thành một thắng cảnh văn hóa – du lịch nổi tiếng của Kinh đô Thăng Long – Hà Nội. Vì vậy chúng ta hãy chung ta cùng bảo tồn và phát triển thắng cảnh này.

Hồ Hoàn KIếm và đền Ngọc Sơn – Hà Nội

Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh hồ Hoàn Kiếm và đền Ngọc Sơn, thuộc địa bàn quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di quốc gia đặc biệt theo Quyết định số 2383/QĐ-TTg ngày 09/12/2013.

hà nội có gì?

Hồ Hoàn KIếm và đền Ngọc Sơn – Hà Nội

Hồ Hoàn Kiếm, tức hồ Gươm – dấu tích của một khúc sông Nhị Hà xưa, là thắng cảnh nổi tiếng của Thủ đô. Tên hồ gắn với truyền thuyết về Lê Lợi – Sau khi cuộc kháng chiến trường kỳ chống quân Minh giành thắng lợi, một hôm, vua Lê Thái Tổ chơi thuyền trên hồ, bỗng thấy một con rùa lớn nổi lên mặt nước đòi lại gươm báu. Ngài rút gươm trả và rùa thần ngậm lấy gươm lặn xuống nước. Từ đó, hồ có tên gọi là Hồ Gươm hay Hồ Hoàn Kiếm.

Đền Ngọc Sơn không chỉ là một di tích tín ngưỡng, mà một thời còn là nơi sinh hoạt của Hội Hướng thiện, một tổ chức tập hợp được nhiều nhà Nho yêu nước đương thời, như Nguyễn Văn Siêu (1799 – 1870), Vũ Tông Phan (1800 – 1851) để tuyên truyền, giáo dục điều thiện cho quần chúng, tổ chức in nhiều loại sách, như sách thuốc, kinh của đạo Giáo, sách luận về tín ngưỡng… Khi Pháp chiếm Hà Nội, nhiều hội khác, như Lạc Thiện, Tập Thiện, An Lạc cũng lấy đền Ngọc Sơn làm cơ sở tuyên truyền chủ trương chống Pháp. Những năm đầu của thế kỷ XX, Nguyễn Thượng Hiền, Lương Văn Can, đã cho xây kinh đàn để giảng kinh tại đây. Nhiều nhà trí thức đã lập ra một số tổ chức và công khai kêu gọi nhân dân đoàn kết yêu nước, mà tiêu biểu là phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục…

Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh hồ Hoàn Kiếm và đền Ngọc Sơn bao gồm hồ Hoàn Kiếm, đền Ngọc Sơn và khu tưởng niệm vua Lê.

Hồ Hoàn Kiếm

Xa xưa, hồ này có tên là hồ Lục Thủy, hồ Tả Vọng, sau đó được đổi tên theo truyền thuyết vua Lê Thái Tổ trả gươm, nên gọi là hồ Hoàn Kiếm/hồ Gươm. Diện tích của hồ là 115.511m2. Phía Bắc giáp một phần đường phố Đinh Tiên Hoàng, phường Hàng Bạc; phía Đông giáp đường phố Đinh Tiên Hoàng, phường Lý Thái Tổ; phía Nam giáp phố Hàng Khay, phường Tràng Tiền; phía Tây giáp phố Lê Thái Tổ, phường Hàng Trống. Xung quanh Hồ được bó vỉa bằng đá, bao quanh là hệ thống vườn hoa, cây xanh.

hà nội có gì?

Hồ Hoàn KIếm – Hà Nội

Trên gò đất nổi trong lòng hồ có một ngọn tháp, nơi rùa thường bò lên đẻ trứng nên được gọi là tháp Rùa (Quy Sơn tháp). Tháp xây bằng gạch, có mặt bằng hình chữ nhật, gồm 4 tầng, có 5 cửa dạng vòm. Tầng chóp có mái dạng phương đình 4 mái.

Đền Ngọc Sơn

Đền Ngọc Sơn toạ lạc trên đảo Ngọc trong hồ Hoàn Kiếm, gồm các hạng mục: nghi môn, tháp Bút, nghi môn nội, đài Nghiên, cầu Thê Húc, cổng Đắc Nguyệt, đình Trấn Ba, tiền tế, trung đường, hậu cung, tả – hữu vu, nhà kính thư, nhà hậu.

hà nội có gì?

Đền Ngọc Sơn – Hà Nội

Nghi môn: bằng gạch, được xây dựng vào thế kỷ XX, dạng trụ biểu, có hai mảng tường lửng nối trụ chính và hai trụ bên.

Tháp Bút: nằm sau nghi môn, được dựng trên ngọn núi đá cao 4m (núi Độc Tôn) để tưởng niệm công ơn của các chiến sĩ tử vong. Tháp có mặt bằng kiến trúc hình vuông, gồm 5 tầng, chóp tháp có hình giống như ngọn bút lông, cao 90cm. Mặt Bắc của 3 tầng dưới ghi 3 chữ Hán “Tả thanh thiên” (Viết lên trời xanh).

Nghi môn nội: nằm sau tháp Bút, với cửa chính được tạo bởi hai trụ lớn, đỉnh trụ đặt tượng nghê. Hai bên có cửa giả, dạng 2 tầng, 8 mái, có các đao cong. Mặt trước của hai cửa giả đắp nổi đồ án Long môn, Hổ bảng.

Đài Nghiên: với cửa chính tạo kiểu vòm cuốn, phía trên xây hai tầng, có trần rộng, chính giữa đặt đài Nghiên, được tạo từ một khối đá xanh hình trái đào, với chiều dài 97cm, ngang 80cm, cao 30cm, chu vi 2m. Đài Nghiên có niên đại cùng thời gian trùng tu đền – năm 1865. Đặc biệt, trên thân của nghiên có bài minh (64 chữ Hán) do Nguyễn Văn Siêu soạn.

hà nội có gì?

Cầu Thê Húc

Cầu Thê Húc: khởi thuỷ, cầu không có tay vịn, qua những lần trùng tu sau, đã làm cầu theo dạng cầu vồng, có lan can, sơn màu đỏ. Hiện tại, cầu có dáng cong, dài 45m, rộng 2,6 m, các thanh bắc cầu bằng gỗ lim; cầu gồm 15 nhịp, mỗi nhịp dài 3m, chân đỡ hệ thống ván cầu làm bằng bê tông cắm sâu xuống lòng hồ.

Cổng Đắc Nguyệt: là một kiến trúc xây bằng gạch, khá vững chắc, dạng 2 tầng, 8 mái đao cong. Hai bên cổng có 2 cửa giả, trên đắp nổi phù điêu “Long mã Hà đồ”, “Thần quy Lạc thư”. Qua cổng Đắc Nguyệt là vào khu kiến trúc chính của đền.

Đình Trấn Ba (đình chắn sóng): quay hướng Nam, được dựng trên 8 cột bê tông giả gỗ, nền cao hơn mặt sân 45cm, xung quanh bó vỉa gạch. Mái đình kiểu chồng diêm 2 hai tầng, 08 mái, các đầu đao được tạo dáng cong vút và thanh thoát.

Tiền tế: gồm 3 gian, tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta, dạng hai tầng bốn mái. Đỡ mái thượng là những kết cấu vì dạng “thượng rường giá chiêng, hạ bẩy hiên”. Nền nhà cao hơn mặt sân 30cm, xung quanh bó vỉa gạch, mặt trước có hệ thống cửa bức bàn, phía trong thông với trung đường.

Trung đường: gồm 3 gian, tường hồi bít đốc, với các bộ vì kiểu “thượng chồng rường, hạ kẻ”. Nền toà này cao hơn nền tiền tế 40cm. Hệ thống cửa bức bàn trang trí đồ án chữ Thọ, dơi, rồng, phượng, “long mã chở Hà đồ”, “rùa đội Lạc thư”. Nối trung đường với hậu cung là nhà cầu, được dựng theo kiểu thức 2 tầng mái.

Hậu cung: gồm 3 gian, tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta. Phần mái được nối với toà trung đường qua phần mái của nhà cầu. Các bộ vì được kết cấu theo kiểu “chồng rường”, hệ thống cửa gỗ kiểu bức bàn, thượng song hạ bản.

Tả – hữu vu: mỗi dãy 5 gian, được xây liền kề tường hồi hai bên của trung đường và hậu cung. Tả vu hướng ra cổng Đắc Nguyệt, mái lợp ngói ta, các bộ vì được kết cấu theo kiểu “chồng rường”. Hữu vu ở phía Tây, hướng ra hồ, vì mái có kết cấu kiểu “kèo cầu quá giang bán mái”.

Nhà Kính thư: gồm 03 gian, nối liền với tiền tế ở phía Đông, kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta. Các bộ vì được kết cấu theo kiểu “kèo cầu quá giang cột trốn”.

Nhà hậu (phòng Rùa): gồm 03 gian, nối liền với tiền tế ở phía Tây (bên trái), kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta, có mặt nền cao hơn mặt sân 15 cm. Các bộ vì đỡ mái được kết cấu theo kiểu “kèo cầu quá giang cột trốn”.

Khu tưởng niệm vua Lê

Khu tưởng niệm vua Lê thuộc phường Hàng Trống, gồm các hạng mục: nghi môn, phương đình và tượng vua Lê.

hà nội có gì?

Khu tưởng niệm vua Lê – Hà Nội

Nghi môn: xây bằng gạch, với 2 trụ lớn dạng trụ biểu, đỉnh trụ đắp nổi hình đấu, 4 mặt mui luyện đắp nổi hình hổ phù, 4 góc mui luyện là 4 gờ nổi, tiếp dưới là một đấu vuông, rồi đến lồng đèn, dưới là thân trụ, được tạo khung cân đối.

Phương đình: được xây bằng gạch, kiểu 2 tầng, 8 mái, đỉnh mái đặt một hình nậm rượu, từ đó tạo thành 4 bờ dải nối xuống bốn góc mái trên. Các đao mái, bờ dải được trang trí hình rồng, mái giả ngói. Phần cổ diêm mặt ngoài đắp nổi hình tùng lộc, trúc mọc trên đá, mai điểu… Dưới lớp mái hạ, ở các góc là 4 trụ vuông lớn chịu lực chính, mỗi mặt có thêm 2 trụ tròn. Thân trụ được khoét những rãnh soi, phía trên là một đấu tròn đội một đầu rồng.

Tượng vua Lê: được dựng trên khu đất cao hơn nền đường và vườn khoảng 1m. Toàn bộ chân đế và trụ để đặt tượng được ghép bằng đá và chia làm 3 phần. Tượng đúc bằng đồng, cao 1,2m, trong tư thế đứng, đầu đội mũ Bình thiên, bốn góc mũ trang trí kim tòng, thân mũ trang trí nổi các hình rồng chầu. Trên thân áo cũng được trang trí rồng chầu, với thân nhỏ, tạo vẩy nổi rõ như vẩy cá chép, điểm xuyết các đao mác… Tay trái của tượng chống vào hông, tay phải của cầm kiếm. Phía sau tượng đài là bức bình phong, được chia ba phần phân cách bởi các trụ, trên các thân trụ đắp nổi các cụm vân mây.

Đền Ngọc Sơn và khu vực hồ Hoàn Kiếm luôn được chính quyền và nhân dân Hà Nội, cùng cả nước quan tâm tôn tạo, giữ gìn và phát huy giá trị, đã trở thành một trong những biểu tượng về lịch sử, văn hóa và cảnh quan của Thủ đô ngàn năm văn vật. Di tích mang giá trị lớn về nhiều mặt và ngày càng thân thiết, gắn bó với người dân Hà Nội nói riêng và nhân dân cả nước, cũng như bạn bè quốc tế nói chung.

Chùa Một Cột – Hà Nội

Chùa một cột nằm trong khu di tích chùa Diên Hựu, Thôn Thanh Bảo, Quảng Đức vào thời lý. Đến nay được gọi là Chùa Một Cột thuộc Ba Đình gần Lăng Bác, Hà Nội.

hà nội có gì?

Chùa Một Cột – Hà Nội

Được khởi công và xây dựng vào 10/1049 âm lịch. Trước kia chùa có rất nhiều tên khác nhau như chùa Mật (tiếng Hán-Nôm) và “Diên Hựu tự”, “Liên Hoa Đài”. Ngôi chùa được xây dựng theo một giấc mơ của vua Lý Thái Tông (1028-1054). Có một lần vua Lý Thái Tông đã mơ thấy phật quan âm ngồi trên đài sen và dắt mình lên đài. Khi tỉnh dậy, Nhà Vua kể cho bề tôi nghe và được nhà sư Thiền Tuệ gợi ý nên xây dựng ngôi chùa và nhà vua đã dựa theo ý tưởng thiết kế của Thiền Tuệ để xây dựng ngôi chùa.

Ngôi chùa được thiết kế bằng gỗ ở phần dưới là cột đã tượng trưng cho thân sen, còn phía trên là đài sen. Bên trong có tượng phật bà Quan Âm để thờ. Cho đến năm 1105, Vua Lý Nhân Tông cho mở rộng kiến trúc của chùa và xây dựng thêm hồ Linh Chiểu.Về sau, chùa chỉ còn lại ngôi chùa nhỏ như ngày nay. Gồm có đài Liên Hoa hình vuông, chiều dài mỗi cạnh chùa là 3m, mái cong cong, dựng trên cột đá cao 4 m, đường kính 1,2m có cột đá là 2 khúc chồng lên nhau thành một khối. Tiếp đến là hệ thống đòn bẩy để giữ thăng bằng cho ngôi chùa phía trên. Ngôi chùa được xây dựng vươn lên khỏi mặt nước là một kiến trúc độc đáo. Phía dưới là hồ hình vương bao quanh bởi gạch tráng men màu xanh.

Với vốn lịch sử mà taxi sân bay nội bài được biết thì cho đến năm 1840- 1850, ngôi chùa một cột được trùng tu và tôn tạo, lần tiếp theo là vào năm 1920. Vào năm 1955, Đài Liên Hoa được sửa chữa bởi kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng. Năm 1995, ngôi Tam bảo được trùng tu với tổng số tiền lên tới 500 triệu đồng. và tiếp theo là trùng tu nhà mẫu năm 1997 hết 200 triệu đồng.

hà nội có gì?

Chùa Một Cột – Hà Nội

Chùa một cột là một trong những danh lam thắng cảnh được bộ văn hóa nước ta xếp hạng di tích lịch sử, nghệ thuật, kiến trúc vào năm 4/1962. Chùa Một Cột có một ý nghĩa lịch sử và văn hóa vô cùng to lớn. Đây cũng là biểu tượng của người Hà Nội ngàn năm văn hiến. Có một điều rất được được có thể bạn không để ý mà taxi nội bài Hà Nội sẽ nói đó là chùa một cột còn được in đằng sau đồng tiền xu 5000 của Việt Nam.

Nếu bạn có cơ hội du lịch 1 ngày Hà Nội thì chắc chắn các bạn không thể bỏ qua đó chính là Chùa Một Cột. Ngôi chùa tuy nhỏ bé nhưng nó là nét văn hóa của dân tộc và có nét kiến trúc riêng không đâu có được. Chính sử đặc biệt này mà hàng năm, khách du lịch đến đây rất đông và là nơi yêu thích của khách du lịch trong và ngoài nước.

Văn Miếu – Quốc Tử Giám – Hà Nội

Văn Miếu – Quốc Tử Giám thuộc địa bàn quận Đống Đa và Ba Đình, thành phố Hà Nội.

hà nội có gì?

Văn Miếu – Quốc Tử Giám – Hà Nội

Theo tư liệu lịch sử, năm 1070, Lý Thánh Tông cho dựng Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công, tứ phối, vẽ tượng thất thập nhị hiền, bốn mùa tế tự và cho Hoàng thái tử đến học. Năm 1076, triều đình lại cho lập Quốc Tử Giám. Năm 1253 (đời Trần), đổi tên Quốc Tử Giám thành Quốc Tử viện. Đến đời Lê (năm 1483), đổi tên Quốc Tử viện thành Thái Học đường. Thời Nguyễn, khu vực này được đổi thành Văn Miếu Hà Nội.

Trong lịch sử, di tích là nơi thờ Thánh Nho (Khổng Tử), Chu Công, tứ phối, thất thập nhị hiền, Chu Văn An và là trường Quốc Học đào tạo trí thức Nho học của nước ta từ thời Lý đến thời Lê; đồng thời cũng là nơi dựng bia “đề danh” (hiện còn 82 bia) những tiến sĩ đã đỗ đạt trong các kỳ thi tiến sĩ từ thời Lý đến thời Lê, trong đó có nhiều danh nhân trong lịch sử nước ta.

Trải qua thời gian gần 1000 năm, các công trình kiến trúc của di tích có sự thay đổi nhất định. Hiện nay, di tích còn bảo tồn được một số hạng mục kiến trúc thời Lê và thời Nguyễn. Khu nhà Thái Học mới được Nhà nước đầu tư phục dựng năm 1999- 2000.

Dựa vào công năng kiến trúc, có thể chia di tích thành hai khu vực chính: Văn Miếu – nơi thờ tự tiên Nho, và Quốc Tử Giám – trường đào tạo trí thức Nho học.

Văn Miếu

Văn Miếu được xây dựng trên khu đất hình chữ nhật (dài 300m, rộng 70m), xung quanh là tường gạch vồ, gồm các hạng mục sau:

hà nội có gì?

Văn Miếu

Hồ Văn: ở trước mặt Văn Miếu, có diện tích 12.297m2. Trước đây, giữa hồ có gò Kim Châu, trên dựng một phương đình – “Phán Thuỷ đình”, là nơi diễn ra các buổi bình thơ của Nho sĩ. Nay phương đình đã mất, trên gò vẫn còn tấm bia dựng năm Tự Đức 18 (1865) ghi lại việc tu sửa Văn Miếu.

Nghi môn ngoại (tứ trụ): được xây bằng gạch, hai trụ giữa xây cao hơn, đỉnh trụ đặt hai tượng nghê chầu, hai trụ ngoài thấp hơn, đỉnh trụ đắp hình chim phượng, đuôi chụm vào nhau, 4 đầu quay về 4 hướng, thân trụ đắp nổi các đôi câu đối chữ Hán. Hai bên nghi môn có 2 bia “Hạ mã” (xuống ngựa). Đây cũng là cột mốc ranh giới hiện nay của di tích.

Nghi môn nội: được xây 2 tầng, gồm 3 cửa cuốn vòm. Trên cửa chính nghi môn nội đề 3 chữ “Văn Miếu môn”, tầng dưới to, có cầu thang lên tầng 2, tầng trên thu nhỏ, xung quanh có hành lang rộng, 4 mặt có lan can. Kiến trúc tầng 2 giống như một nghi môn 2 tầng, 8 mái, mở 3 cửa cuốn, không có cánh cửa, trên bờ nóc đắp nổi đôi rồng chầu mặt nguyệt.

Cửa Đại Trung (Đại Trung môn): gồm 3 gian, kết cấu ba hàng chân cột, dựng trên nền gạch cao, mái lợp ngói, hai bên có 2 cửa nhỏ (“Thành Đức môn” và “Đại Tài môn”).

Khuê Văn các: là một lầu vuông, gồm 2 tầng, 8 mái, dựng năm 1805, trên một nền vuông lát gạch Bát Tràng. Phía dưới là 4 trụ gạch, 4 phía để trống, bên trên là kiến trúc gỗ, có sàn gỗ, mái lợp ngói, 4 mặt bưng ván gỗ, mỗi phía trổ một cửa tròn, có các con tiện tượng trưng cho các tia của sao Khuê toả sáng. Phía trên treo biển đề “Khuê Văn các” (chữ Hán), cùng hệ thống câu đối. Hai bên Khuê Văn các có 2 cửa nhỏ (“Bí văn môn” và “Súc văn môn”).

Hai dãy nhà bia tiến sĩ: gồm 82 bia tiến sĩ (được dựng từ năm 1484 đến năm 1780) của 82 khoa thi – từ khoa thi Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo 3 (1442) đến khoa thi năm 1779. Nội dung bia ghi tên, quê quán, khoa thi của 1305 vị đỗ đại khoa. Hai dãy nhà bia mới được dựng lại năm 1994, gồm 8 nhà che bia, sắp xếp bia tiến sĩ mỗi bên bốn dãy, mỗi nhà đặt 10 bia. Hai tấm bia ghi nội dung khoa thi năm 1442 và 1448 được đặt vào giữa hai toà Bi đình. Các nhà bia được dựng theo kiểu nhà có mái đao, lợp ngói mũi hài, kết cấu vì kèo “giá chiêng”, nền lát gạch bát. Bia Văn Miếu được dựng vào 3 đợt chính: niên hiệu Hồng Đức 15 (1484) dựng 10 bia; niên hiệu Thịnh Đức 1 (1653) dựng 25 bia; niên hiệu Vĩnh Thịnh 13 (1717) dựng 21 bia. Ngoài ra, các bia còn lại đều được dựng cùng niên đại với khoa thi hoặc sau khoa thi một năm. Các tấm bia đều được khắc bằng loại đá được khai thác tại núi An Hoạch, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá (hiện nay vẫn còn 1 tấm bia ghi lại việc lấy đá ở vùng này khắc 25 bia Văn Miếu vào năm 1653).

Cửa Đại Thành (Đại Thành môn): hai bên cửa có 2 cửa nhỏ (Kim Thanh và Ngọc Chấn). Cửa Đại Thành gồm 3 gian, kiến trúc 3 hàng chân cột, với 2 hàng cột hiên và một hàng cột giữa đỡ xà nóc, ba gian đều được lắp cửa 2 cánh, chính giữa treo bức hoành phi đề 3 chữ “Đại Thành môn”.

Đại bái: gồm 9 gian, 6 hàng chân cột, giữa bờ nóc đắp nổi hình lưỡng long chầu nguyệt. Gian giữa kê một hương án, là nơi xưa kia xuân, thu nhị kỳ vua cùng hoàng thân và các quan lại đến tế Khổng Tử. Đại bái xây trên nền cao hơn mặt sân 30 cm, xung quanh nền bó vỉa gạch, mái lợp ngói mũi hài, các bộ vì kết cấu kiểu “chồng rường, cốn kẻ chồng, bẩy hiên”, nền lát gạch Bát Tràng. Trang trí trên kiến trúc tập trung ở các bẩy hiên, chạm hình hoa lá cách điệu.

Điện Đại thành: xây song song với toà Đại bái, được nối với nhau bằng một phương đình, gồm 9 gian, xây tường 3 mặt, phía trước có cửa bức bàn đóng kín 5 gian, 4 gian đầu hồi có cửa chấn song cố định. Chính giữa có khám và ngai lớn, đặt trên bệ xây gạch, trên có bài vị “Đại Thành chí thánh tiên sư Khổng tử” – nay đã bị mất, chỉ còn lại ngai và khám.

Hai dãy nhà tả, hữu vu: mỗi dãy 9 gian, dựng trên nền cao, phong cách kiến trúc thời Hậu Lê, đầu Nguyễn, nền bó vỉa gạch, lát gạch bát, mái lợp ngói ta, bờ nóc đắp kiểu bờ đinh, kết cấu vì kèo kiểu “chồng rường”.

Quốc Tử Giám

Quốc Tử Giám xưa ở phía sau khu Văn Miếu, có giảng đường, khu nhà dành cho học sinh, kho chứa ván (gỗ) khắc in sách. Khi Quốc Tử Giám chuyển vào Huế thì khu vực này trở thành khu Khải Thánh, nơi thờ cha mẹ Khổng Tử. Hai bên tòa Khải Thánh là tả, hữu vu, giữa là một sân rộng. Hiện nay, kiến trúc khu vực này gồm các hạng mục:

hà nội có gì?

Quốc Tử Giám

Tả, hữu vu: xây chạy dọc hai bên sân, mỗi dãy 9 gian kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta, bờ nóc đắp kiểu bờ đinh, kết cấu vì kèo kiểu “chồng rường”, nền lát gạch bát.

Nhà Thái học: được dựng lại năm 1998 – 2000, gồm hai nếp nhà có kết cấu liên hoàn, mái lợp ngói mũi hài, các bộ vì đỡ mái kiểu “chồng rường, cốn chồng kẻ, bẩy hiên”, nền lát gạch bát. Cung thờ phía sau xây kiểu mái chồng diêm, lợp ngói mũi hài, kết cấu bộ vì kiểu “giá chiêng chồng rường”, nền lát gạch Bát Tràng. Tầng dưới Nhà Thái học trưng bày hiện vật, hình ảnh giới thiệu về di tích, tầng trên là nơi thờ các vị vua: Lý Thái Tông, Lý Nhân Tông, Lê Thánh Tông.

Ngoài ra, trong khu Văn Miếu còn có một miếu thờ thổ thần và điện thờ Mẫu. Tại di tích hiện còn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị văn hóa, lịch sử và khoa học, như hệ thống đồ thờ tự, tượng thờ, cổ vật, đặc biệt là 82 bia tiến sĩ đã được UNESCO vinh danh là “Di sản tư liệu thế giới”.

Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học tiêu biểu của di tích, năm 1962, Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã xếp hạng Văn Miếu – Quốc Tử Giám là Di tích quốc gia; ngày 10/5/2012, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Văn Miếu – Quốc Tử Giám là di tích quốc gia đặc biệt.

Khu Trung tâm Hoàng Thành Thăng Long – Hà Nội

Di tích lịch sử và khảo cổ Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội nằm trên địa bàn phường Điện Biên và Quán Thánh, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, với diện tích quy hoạch bảo tồn vùng lõi là 18,395ha (bao gồm Khu di tích thành cổ Hà Nội và Khu di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu) và diện tích vùng đệm là 108ha.

hà nội có gì?

Khu Trung tâm Hoàng Thành Thăng Long – Hà Nội

Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, lập nên vương triều Lý. Năm 1010, Lý Thái Tổ rời đô từ Hoa Lư về thành Đại La, đổi tên kinh đô mới là Thăng Long và xây dựng nơi đây thành một trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa lớn nhất của đất nước. Trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê Sơ, Mạc và Lê Trung Hưng, thành Thăng Long luôn giữ vị trí “Quốc đô”, là nơi ở và làm việc của Vua và Hoàng tộc. Khu vực này cũng còn là nơi cử hành các nghi lễ quan trọng của đất nước. Sau khi nhà Nguyễn định đô ở Huế (1802), vai trò kinh đô của Thăng Long mới bị giải thể… Từ sau năm 1954, khu vực thành Thăng Long trở thành trụ sở làm việc của Bộ Quốc phòng. Chính tại khu vực này, nhiều quyết định quan trọng của Đảng và Nhà nước đã được ra đời, góp phần tạo ra những thắng lợi lớn trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.

Trải qua thời gian và những biến cố của lịch sử, thành Thăng Long đã có nhiều thay đổi, biến dạng…, nhưng đến nay vẫn còn lưu giữ được một số di tích lịch sử và khảo cổ học, tiêu biểu như:

Kỳ đài (Cột cờ Hà Nội): xây dựng vào năm 1812, dưới thời vua Gia Long, cao 33,4m, gồm ba tầng: đế, thân cột và vọng canh…

Đoan môn: là cửa thành phía Nam, xây theo kiểu vòm cuốn. Đoan môn được bố cục theo chiều ngang, gồm cửa chính giữa dành riêng cho vua, hai bên có 4 cửa nhỏ hơn, dành cho các quan và hoàng tộc…

Điện Kính thiên: nằm ở vị trí trung tâm của hoàng thành (thời Lê Sơ), được xây dựng năm 1428, ngay trên nền cũ của điện Càn Nguyên thời Lý (sau đổi tên là điện Thiên An). Năm 1886, điện này đã bị thực dân Pháp phá để xây dựng Sở Chỉ huy Pháo binh quân đội Pháp. Hiện nay, chỉ còn lại dấu tích của nền móng của điện Kính thiên. Đặc biệt, khu vực này còn lưu giữ được hai bậc thềm rồng bằng đá, có niên đại thế kỷ XV.

Hậu lâu (Lầu Công chúa): xây dựng năm 1821, được sử dụng làm nơi nghỉ ngơi của các cung nữ trong đoàn hộ tống các Vua nhà Nguyễn khi xa giá ra Bắc. Cuối thế kỷ XIX, Hậu lâu bị hư hỏng nặng, thực dân Pháp đã cho cải tạo, xây dựng lại như hiện nay.

Chính Bắc môn (Cửa Bắc): là cổng thành phía Bắc, được xây dựng năm 1805, gồm hai tầng, tám mái, với đầu đao cong, theo kiểu truyền thống.

Tường bao và 8 cổng hành cung thời Nguyễn: năm 1805, nhà Nguyễn đã cho xây dựng tường bao từ cửa Đoan môn quanh nội điện, làm hành cung để vua làm việc và nghỉ ngơi mỗi khi Bắc tuần. Hiện nay, trong khu thành cổ còn 8 cổng thành cùng với hệ thống tường bao xung quanh hành cung bằng gạch vồ.

Di tích nhà và hầm D67: được xây dựng vào năm 1967, trong khu A. Đây là nơi Bộ Chính trị, Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh đã đưa ra nhiều quyết định mang tính lịch sử, đánh dấu những mốc son của cách mạng Việt Nam: Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, chiến dịch năm 1972, Cuộc tổng tiến công năm 1975 và đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh…

Những công trình kiến trúc Pháp: được xây dựng từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX theo kiểu Vauban, bao gồm tòa nhà Sở Chỉ huy Pháo binh Quân đội Pháp; một tòa nhà 2 tầng, xây dựng năm 1897, nay dùng làm trụ sở của Cục Tác chiến; hai tòa nhà một tầng, xây dựng năm 1897. Phía Đông của tòa nhà Cục Tác chiến có một nhà khách, xây dựng năm 1930.

Cây xanh trong khu di tích: được trồng với mật độ dày, đa dạng về chủng loại, đã góp phần tạo ra môi trường trong lành và cảnh quan hài hòa cho khu di tích.

Di tích khảo cổ tại 18 Hoàng Diệu: nằm cách nền điện Kính Thiên khoảng 100m về phía Tây, có diện tích 4,530ha, bắt đầu khai quật từ tháng 12 năm 2002, được phân định làm 4 khu (A, B, C, D). Khi tiến hành khai quật tại đây, các nhà khảo cổ học đã phát hiện dấu tích nền móng của các công trình kiến trúc cổ thuộc Hoàng thành Thăng Long cùng nhiều hiện vật có giá trị, như vật liệu trang trí kiến trúc bằng đất nung, cột gỗ, đồ gốm sứ của các triều đại phong kiến Việt Nam và nhiều đồ dùng, vật dụng của nước ngoài, như các loại đồ sứ của Tây Á, Trung Quốc, Nhật Bản…

hà nội có gì?

Khu Trung tâm Hoàng Thành Thăng Long – Hà Nội

Thành cổ Thăng Long – Hà Nội là di tích lịch sử và khảo cổ tiêu biểu, là bằng chứng vật chất phản ánh trình độ kỹ thuật cao, chứa đựng các giá trị về lịch sử, kiến trúc và nghệ thuật. Đồng thời, phản ánh sự giao thoa văn hóa với các nước trong khu vực và trên thế giới trong một quá trình lịch sử lâu dài, thể hiện qua rất nhiều hiện vật lịch sử, công trình kiến trúc, cảnh quan đô thị mang bề dày hàng ngàn năm lịch sử.

Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử và khảo cổ Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội là di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 1272/QĐ-TTg, ngày 12/08/2009).

Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch – Hà Nội

Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch thuộc địa phận phường Ngọc Hà, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Đây là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và làm việc lâu nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người (từ ngày 19 tháng 12 năm 1954 đến ngày 02 tháng 9 năm 1969), đồng thời là trụ sở làm việc của Trung ương Đảng và Nhà nước Việt Nam sau khi Cách mạng tháng Tám thành công (1945).

hà nội có gì?

Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch – Hà Nội

Tổng diện tích Khu lưu niệm rộng hơn 10ha, gồm hệ thống nhà cửa, sân, vườn, thảm cỏ, ao cá, đường đi, trong đó nổi bật là 3 điểm di tích thành phần: Nhà 54, Nhà sàn của Bác và Nhà 67.

Nhà 54

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng ở và làm việc tại ngôi nhà này trong khoảng thời gian gần 4 năm (từ tháng 12 năm 1954 đến giữa tháng 5 năm 1958). Sau đó, Người chuyển sang ở ngôi nhà sàn, được xây dựng trong khu vườn Phủ Chủ tịch, nhưng Người vẫn trở về nơi đây để dùng cơm hàng ngày và khám sức khoẻ định kỳ. Bởi vậy, Nhà 54 vẫn là nơi gắn bó với cuộc sống thường nhật của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt 15 năm cuối cùng của cuộc đời.

hà nội có gì?

Nhà 54

Nhà 54 có ba phòng, phía giáp ao là phòng làm việc và cũng là nơi Người tiếp khách, ở giữa là phòng ăn, kế tiếp là phòng ngủ.

Tại phòng ăn của Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện đang trưng bày một bộ đồ ăn Người thường sử dụng hàng ngày. Trong phòng ngủ, đồ dùng sinh hoạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thật đơn giản, như mọi người dân bình thường: một bộ bàn ghế để Người đọc sách ban đêm, một chiếc giường nhỏ đơn giản không kiểu cách, cầu kỳ, một chiếc tủ đựng quần áo – trong tủ chỉ có vài ba bộ quần áo Người mặc hàng ngày và bộ quần áo kaki Người dùng khi tiếp khách hoặc đi công tác…

Tổng số tài liệu hiện vật ở trong Nhà 54 gần 400 đơn vị, riêng hiện vật thuộc chất liệu giấy đã có hơn 300 đơn vị. Có thể coi đây là những bằng chứng xác thực nhất, gây ấn tượng mạnh mẽ, xúc động nhất về một cuộc sống thường nhật hết sức thanh bạch, giản dị, nhưng ngăn nắp, khoa học của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Nhà sàn của Bác

Đây là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh ở và làm việc về mùa hè, cũng là nơi Người họp, trao đổi công việc với các đồng chí trong Bộ Chính trị, cán bộ phụ trách các Bộ, ngành hoặc các địa phương, đặc biệt là cán bộ, chiến sĩ miền Nam ra miền Bắc chữa bệnh và công tác.

hà nội có gì?

Nhà sàn của Bác

Tầng trên của Nhà sàn có một phòng làm việc và một phòng ngủ của Người. Phòng làm việc có đặt một bàn, một ghế, một giá sách. Ngăn dưới cùng của giá sách là chiếc máy chữ, được Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng hàng ngày như một cây bút.

Tại phòng ngủ, tiện nghi sinh hoạt của Người thật đơn giản: chiếc giường gỗ trải chiếu cói, mùa đông có thêm tấm đệm, chăn bông và một lò sưởi điện nhỏ.

Trên bàn làm việc ở phòng ngủ của Người vẫn còn một số sách, tạp chí, chiếc mũ cát và chiếc đài bán dẫn của bà con Việt kiều Thái Lan kính biếu Người. Trên chiếc tủ nhỏ đặt ở đầu giường vẫn còn chiếc đồng hồ và cuốn sách Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII mà Người đang đọc dở.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng ở và làm việc tại ngôi nhà này trong khoảng 11 năm cuối đời (1958 – 1969).

Hiện nay, gần 250 tài liệu của Bác và toàn bộ kiến trúc, khuôn viên của Nhà sàn vẫn được bảo quản, giữ gìn như những ngày cuối cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và làm việc ở đây.

Nhà 67

Ngôi nhà này nằm phía sau Nhà sàn (cách khoảng 30m), được khởi công xây dựng ngày 1/5/1967, khánh thành ngày 20/7/1967. Đây là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh thường họp với Bộ Chính trị, cũng là nơi Người làm việc trong thời gian đế quốc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc (1967 – 1969), nơi Người chữa bệnh và qua đời, nên thường được gọi là Nhà 67 hoặc DK2.

hà nội có gì?

Nhà 67

Vào năm 1967, cuộc phiêu lưu mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ ngày càng trở nên ác liệt; Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác cùng nhiều khu công nghiệp bị bắn phá ngày đêm. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị đã quyết định xây dựng ở phía sau Nhà sàn một ngôi nhà kiên cố, phía bên phải có hầm phòng không, để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho Người khi máy bay Mỹ bắn phá bất ngờ. Các đồng chí cán bộ, chiến sĩ ở Cục Công trình, thuộc Bộ Tư lệnh Công binh được giao nhiệm vụ thiết kế và xây dựng công trình này. Tường nhà dầy hơn 60cm, trần nhà dày hơn 1 mét, đều được làm bằng bê tông, cốt thép…

Chủ tịch Hồ Chí Minh không nhận ngôi nhà này cho riêng mình. Người đề nghị sử dụng làm nơi họp Bộ Chính trị, làm việc với các đồng chí Trung ương để bàn những vấn đề quan trọng của đất nước. Từ ngày 25/8/1969 trở đi, Chủ tịch Hồ Chí Minh lâm bệnh nặng, diễn biến bệnh tình mỗi ngày một xấu và phức tạp. Theo quyết định của Bộ Chính trị, Nhà 67 trở thành nơi điều trị bệnh cho Người. Các đồng chí trong Bộ Chính trị, các giáo sư, bác sĩ đầu ngành đều tập trung về đây để chăm lo sức khoẻ cho Bác. Vì tuổi cao, sức yếu, Chủ tịch Hồ Chí Minh không vượt qua được cơn bệnh hiểm nghèo. Chiếc đồng hồ trên tủ nhỏ ở cạnh giường và cuốn lịch treo tường dừng lại thời khắc Người đi xa: 9 giờ 47 phút, ngày 02/9/1969.

Bốn mươi năm qua, trong ngôi nhà này, gần 100 tài liệu, hiện vật vẫn được gìn giữ, xếp đặt vẹn nguyên như xưa, luôn gợi lại những hoạt động và những vấn đề của Chủ tịch Hồ Chí Minh đang quan tâm trong những ngày cuối đời của Người.

Có thể khẳng định rằng, Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch là một trong những di tích có giá trị đặc biệt trên nhiều phương diện.

Trong 15 năm sống tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Chính phủ đề ra đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn cho cách mạng Việt Nam và lãnh đạo nhân dân vượt qua những thử thách cam go ác liệt để thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam tiến tới thống nhất đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ, vì hoà bình và tiến bộ xã hội của thế giới.

Khu di tích cũng là nơi sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức các cuộc đón tiếp các đoàn khách quốc tế, gặp gỡ đại biểu nhân dân Việt Nam. Khu di tích, với việc lưu giữ vẹn nguyên nơi ở, sinh hoạt và làm việc của Bác lúc sinh thời, chính là nơi lưu giữ hết sức cụ thể mà xúc động, thiêng liêng, hình ảnh một vị lãnh tụ suốt đời quên mình vì đất nước, nhưng cũng là một vị lãnh tụ có cuộc sống thường nhật hết sức giản dị, gần gũi, thanh cao.

Với tất cả những ý nghĩa đó, sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa, nơi Người ở và làm việc cùng với các di tích, kỷ vật ở đây đã trở thành những vật chứng quý giá, biểu tượng thiêng liêng về cuộc sống, hoạt động của Người trong 15 năm cuối đời, phản ánh những giá trị cao đẹp nhất của tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh.

Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của Khu lưu niệm, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch (quận Ba Đình, thành phố Hà Nội) là di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 1272/QĐ-TTg, ngày 12/8/2009).

Di tích lịch sử Cổ Loa – Hà Nội

Di tích Cổ Loa thuộc địa phận huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Tại địa điểm này đã có dấu tích của văn hóa Sơn Vi, thuộc hậu kỳ đồ đá cũ, cách đây khoảng 20.000 năm đến 11.000 năm. Khoảng 4.000 năm trước, những cư dân thuộc văn hóa Phùng Nguyên cũng đã định cư trên mảnh đất này. Vào khoảng năm 208 trước Công nguyên, sau khi thống nhất hai bộ tộc Âu Việt và Lạc Việt, lập nên nhà nước Âu Lạc, An Dương Vương đã chọn vùng đất này để lập kinh đô, xây thành Cổ Loa (thành Ốc, Tư Long thành, Loa thành)… Hiện nay, di tích có phạm vi quy hoạch bảo tồn là 830 ha.

hà nội có gì?

Di tích lịch sử Cổ Loa – Hà Nội

Theo thống kê, trong khu vực Cổ Loa hiện có khoảng 60 di tích (trong đó có 07 di tích cấp quốc gia), bao gồm các loại hình: di tích kiến trúc nghệ thuật, di tích lịch sử, cách mạng, di chỉ khảo cổ học.

Đời sống tinh thần của cư dân Cổ Loa rất phong phú, với nhiều tập tục mang đậm sắc thái vùng miền, như tục kết chiềng, kết chạ, tục ăn sêu Bà Chúa vào ngày 13 tháng Tám (Âm lịch), tục khất keo làm cụ Từ, tục kiêng tên húy, tục kiêng nuôi gà, ngan, ngỗng trắng, tục đãi dâu, không đãi rể. Lễ hội Cổ Loa được tổ chức tại đền Thượng vào ngày 6 tháng Giêng hàng năm (tương truyền là ngày Thục Phán lên ngôi vua, lấy hiệu là An Dương Vương)…

Di tích Cổ Loa cũng là địa điểm khảo cổ học có giá trị nổi bật, gắn với các giai đoạn văn hóa khảo cổ của người Việt, như văn hóa Sơn Vi, văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa Đồng Đậu, văn hóa Gò Mun, mà đỉnh cao là Văn hóa Đông Sơn, với nhiều di chỉ khảo cổ tiêu biểu: Đồng Vông, Bãi Mèn, Đình Chiền, Đình Tràng, Mả Tre, Thành Nội, Thành Ngoại, Thành Trung, Xuân Kiều, xóm Nhồi, đền Thượng, Tiên Hội, Đường Mây, Cầu Vực… Tại khu vực này, các nhà khảo cổ đã phát hiện được hàng vạn công cụ lao động, nhạc khí và vũ khí bằng đồng, góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề về thời kỳ An Dương Vương và lịch sử vùng đất này.

Thành Cổ Loa: có diện tích gần 46ha, gồm 3 vòng thành (thành Nội, thành Trung, thành Ngoại) khép kín, đắp bằng đất, với tổng chiều dài là 15,820km. Thành được đắp dựa theo địa hình tự nhiên – nối những gò, đống và những dải đất cao dọc theo sông; bao quanh thành là các hào nước thông với sông Hoàng, trên mặt thành có các ụ đất nhô ra ngoài, gọi là “hỏa hồi”; vòng thành có chỗ xẻ làm cửa, phía trên xây miếu thờ thần.

hà nội có gì?

Thành Cổ Loa

Các nhà khảo cổ học đã tiến hành 03 đợt khai quật khảo cổ tại khu vực này, vào những năm 1970, 2005, 2007 – 2008. Kết quả khai quật cho thấy, trong lịch sử thành Cổ Loa đã trải qua ít nhất 3 lần đắp, mà dấu tích liên quan còn được biểu hiện qua các di tích: lũy phòng thủ, di tích bếp, cụm gốm Đông Sơn, lò nung gạch, ngói có niên đại thế kỷ XVIII – XIX…

Đền Thượng (đền thờ An Dương Vương): dựng trên khu đất rộng 19.138,6m2. Tại vị trí lối lên cửa giữa của đền đặt đôi rồng đá, mang phong cách nghệ thuật thời Lê mạt. Trong đền còn lưu giữ được 5 tấm bia đá và 53 hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc sắc.

hà nội có gì?

Đền Thượng

Kiến trúc đền gồm: tiền tế – 3 gian, 2 chái, hệ khung kết cấu gỗ, mái lợp ngói mũi hài. Trên hệ mái đắp các đầu đao cong, tượng nghê chầu. Các bộ vì chính được làm theo kiểu giá chiêng, sơn son thếp vàng, chạm họa tiết “rồng vờn mây”; trung đường đấu mái liền với hậu cung, tạo thành dạng thức kiến trúc kiểu “chuôi vồ”, bên trong đặt tượng An Dương Vương, bằng đồng, nặng khoảng 200kg, đúc năm 1897.

Từ cuối năm 2004 đến năm 2007, các nhà khảo cổ học đã tiến hành 3 đợt khai quật tại đền Thượng, với 9 hố, trên tổng diện tích 311,5m2. Qua những đợt khai quật này, đã phát hiện được hệ thống lò đúc mũi tên đồng và nhiều hiện vật có giá trị liên quan khác.

hà nội có gì?

Đình Cổ Loa

Đình Cổ Loa (Ngự Triều Di Quy): có bố cục mặt bằng nền hình chữ “Đinh”, gồm đại đình và hậu cung. Đại đình gồm 5 gian, 2 chái, kết cấu khung gỗ, mái lợp ngói mũi hài, với 4 góc đao cong vút. Các bộ vì nóc được kết cấu theo kiểu “giá chiêng, chồng rường”, với 6 hàng chân cột. Hậu cung nối liền với đại đình qua bộ cửa bức bàn phía dưới và đấu mái ở phía trên. Các đề tài trang trí trên kiến trúc này mang phong cách nghệ thuật của thế kỷ XVIII. Đặc biệt, trong đình còn lưu giữ được 17 hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học khá tiêu biểu.

hà nội có gì?

Am Mỵ Châu

Am Mỵ Châu (am Bà Chúa hay đền thờ Mỵ Châu): toạ lạc trên khu vực rộng 925,4m2. Mặt bằng kiến trúc được bố cục theo dạng “tiền Nhất, hậu Đinh”, gồm các tòa tiền tế, trung đường và hậu cung.

Chùa Cổ Loa (Bảo Sơn tự): được khởi dựng vào khoảng đầu thế kỷ XVII, bố cục mặt bằng nền theo dạng “nội Công, ngoại Quốc”, gồm các hạng mục: tiền đường, thiêu hương, thượng điện, hậu cung, gác chuông, tháp mộ, cổng hậu, nhà Tổ, nhà ni, nhà khách. Đặc biệt, trong chùa còn lưu giữ được 132 hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học đặc sắc.

hà nội có gì?

Chùa Mạch Tràng

Chùa Mạch Tràng (Quang Linh tự): được dựng vào thời Hậu Lê, trên diện tích rộng 4.922,4m2. Chùa quay hướng Nam, bao gồm các hạng mục: Tam bảo, tiền đường, thượng điện, nhà Mẫu, giải vũ, hành lang…

Đình Mạch Tràng: tọa lạc trên một khu đất cao, có diện tích 6.198,4m2, gồm các hạng mục tiền tế, đại đình và hậu cung.

Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học tiêu biểu của di tích, ngày 27/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ Cổ Loa là Di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 1419/QĐ-TTg)

Di tích lịch sử Đền Hai Bà Trưng – Hà Nội

Đền Hai Bà Trưng còn gọi là đền Hạ Lôi, thuộc thôn Hạ Lôi, xã Mê Linh, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội. Đền thờ hai vị liệt nữ – anh hùng dân tộc là Trưng Trắc và Trưng Nhị – những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đánh đổ ách thống trị của nhà Đông Hán vào năm 40 – 43 (sau Công nguyên), giành lại nền độc lập, tự chủ dân tộc.

hà nội có gì?

Di tích lịch sử Đền Hai Bà Trưng – Hà Nội

Nằm trên một khu đất cao, rộng, nhìn ra đê sông Hồng, với diện tích 129.824.0m2, đền gồm các hạng mục: cổng đền, nhà khách, nghi môn ngoại, nghi môn nội, gác trống, gác chuông, nhà tả – hữu mạc, đền thờ Hai Bà Trưng, đền thờ thân phụ – thân mẫu Hai Bà, đền thờ thân phụ, thân mẫu ông Thi Sách, đền thờ các nữ tướng triều Hai Bà Trưng, đền thờ các nam tướng triều Hai Bà Trưng, nhà bia lưu niệm Hộp thư bí mật của đồng chí Trường Chinh, hồ bán nguyệt, hồ mắt voi, suối vòi voi, hồ tắm voi, thành cổ Mê Linh…

Cổng đền: được xây 2 tầng, tầng dưới tạo 3 cửa vòm cuốn, tầng trên xây kiểu chồng diêm, với 2 tầng 8 mái. Bờ nóc đắp hình đôi rồng chầu mặt trời, phần cổ diêm trang trí hình hoa 4 cánh, các góc đao đắp hình lá hỏa, góc cột đắp hình hoa cúc dây, thân cột hình hoa lá.

Nhà khách: gồm 7 gian, xây kiểu tường hồi bít đốc.

Nghi môn ngoại: xây kiểu cột đồng trụ hay còn gọi là tứ trụ. Đỉnh trụ trang trí tứ phượng theo kiểu lá lật, các ô lồng đèn phía dưới trang trí tứ linh. Hệ thống tứ trụ phân cách thành một cổng chính và hai cổng phụ.

Nghi môn nội: gồm một gian, hai dĩ, với bờ nóc, bờ dải đắp hình hoa chanh, hai bên đầu hồi đắp hai đầu rồng, phần khúc nguỷnh đắp hai con nghê gắn sứ trong tư thế chầu vào nhau, bốn góc đao uốn cong, bộ vì đỡ mái làm kiểu “thượng chồng rường, hạ kẻ chuyền”.

Gác chuông, gác trống: gác trống – gác chiêng đều được làm theo kiểu bốn mái uốn cong, bờ dải đắp hình hoa chanh, hai bên đầu hồi đắp hình hổ phù, tầng trên mở bốn cánh cửa quay về bốn hướng…

Đền thờ Hai Bà Trưng:

hà nội có gì?

Đền thờ Hai Bà Trưng:

Tòa tiền tế gồm 7 gian, 2 dĩ, xây theo kiểu tường hồi bít đốc, bờ nóc đắp kiểu bờ đinh, hai đầu đắp hình con đấu, đầu hai bờ dải đắp hình phượng vũ. Phía trước tiền tế có đôi voi đá trong tư thế quỳ chầu vào nhau. Hai cổng nhỏ với mái làm theo kiểu “chồng diêm”, mái uốn cong. Nối hai cổng nhỏ là hai bức “cánh phong”, phía trước có cột trụ biểu, đỉnh trụ hình trái giành, các ô lồng đèn đắp nổi tứ linh.

Nhà trung tế gồm 5 gian, 2 dĩ, xây kiểu tường hồi bít đốc, bờ nóc đắp hình hoa chanh, chính giữa đắp hổ phù, hai mái kiểu chồng diêm… phía trước trung tế có lư hương đá…

Nối với gian giữa trung tế là hậu cung – một nếp nhà ba gian, một dĩ, được xây dọc, hợp với trung tế tạo thành một kiến trúc tổng thể dạng chữ Đinh. Bộ khung đỡ mái hậu cung gồm bốn bộ vì mang kết cấu “thượng giá chiêng hạ chồng rường, và “thượng giá chiêng hạ cốn”. Các hàng cột có đường kính 35cm, trên cốn nách chạm hình chữ Thọ, hoa lá.

Đền thờ thân phụ, thân mẫu Hai Bà Trưng: có mặt bằng dạng chữ Đinh, gồm tiền tế và hậu cung. Tiền tế gồm nhà 5 gian, xây theo kiểu tường hồi bít đốc, bờ nóc đắp lưỡng long chầu nguyệt, bờ dải kiểu bờ đinh. Hậu cung gồm 1 gian, 2 dĩ.

Đền thờ thân phụ, thân mẫu ông Thi Sách: tọa lạc về phía bên trái đền thờ Hai Bà Trưng. Đền quay hướng Tây Nam, có mặt bằng kiến trúc dạng chữ Đinh, gồm tiền tế và hậu cung.

Đền thờ các Nữ tướng thời Hai Bà Trưng: có mặt bằng dạng chữ nhất, gồm 5 gian, xây kiểu tường hồi bít đốc. Hai gian bên trổ cửa hình chữ Thọ để lấy ánh sáng cho di tích. Hệ khung đỡ mái gồm 6 bộ vì được kết cấu theo dạng “thượng giá chiêng, trung kẻ truyền, hạ bẩy hiên, hậu gối tường”. Chính giữa ban thờ xây bệ cao bài trí ngai và bài vị, phía trước bài trí hương án.

Đền thờ các tướng Nam thời Hai Bà Trưng: quay hướng Đông Bắc, có mặt bằng kiến trúc dạng chữ Nhất, gồm 5 gian, tường hồi bít đốc, với 6 bộ vì được kết cấu theo dạng “thượng giá chiêng, trung kẻ truyền, hạ bẩy hiên, hậu gối tường”. Chính giữa ban thờ xây bệ cao bài trí khám thờ và bài vị.

Nhà tả/ hữu mạc: là nếp nhà 7 gian, xây kiểu tường hồi bít đốc, bờ nóc, bờ dải đắp hình hoa chanh, hệ vì đỡ mái được kết cấu theo dạng “thượng giá chiêng chồng rường, trung kẻ, hạ bẩy”. Phía trước hiên dãy nhà bên phải đền bài trí 8 con voi, ngựa, sư tử, bên trong trưng bày một số di vật khai quật tại thành cổ Mê Linh.

hà nội có gì?

Thành cổ Mê Linh

Thành cổ Mê Linh: hiện vẫn còn dấu vết thành cổ đắp đất, hình “con rắn uốn mình”, dài 1.750m, với chỗ rộng nhất là 500m, chỗ hẹp nhất là 200m, đắp bằng đất luyện, dày khoảng 1 ngũ (khoảng 2m), cao 1 trượng (khoảng 4m). Bao ngoài bờ thành là quách dày 2 ngũ (khoảng 4m), cao 1 trượng (khoảng 4m). Khoảng cách giữa thành và quách là đường “thông cù” rộng 2 ngũ (khoảng 4m). Do có con đường “thông cù” này mà thành có tên là “thành Ống”. Vòng ngoài cùng là hào cắm chông tre. Tương truyền, xưa kia trong thành có cung điện của Trưng Vương, ngoài thành có các trại quân bộ, quân thủy. Hiện nay còn di tích các đồn quân của nữ tướng Lự Nương và nam tướng Bạch Trạch ở phía trước đền Hạ Lôi, thuộc xã Tráng Việt. Đây chính là đất Phấn Lộ, huyện Chu Diên, nơi Hai Bà Trưng cho đắp đô thành. Thành cổ đã được khai quật khảo cổ và thu được nhiều hiện vật có giá trị.

hà nội có gì?

Nhà bia lưu niệm Hộp thư bí mật của đồng chí Trường Chinh

Nhà bia lưu niệm Hộp thư bí mật của đồng chí Trường Chinh: được xây kiểu bốn mái, các góc mái uốn cong, chính giữa gắn tấm bia lưu niệm có nội dung: ‘‘Nơi đây có cây lụa già thân rỗng là hộp thư bí mật của đồng chí Trường Chinh – Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam những năm 1943 – 1945, đồng chí Trường Chinh đã lấy đền thờ Hai Bà Trưng là một trong những nơi hội họp bí mật để chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền Thủ đô Hà Nội ngày 19/8/1945’’.

Mắt voi, vòi voi, hồ tắm voi, hồ bán nguyệt: Tương truyền khu đền này được xây trên mảnh đất có thế (hình) đầu con voi nên có các tên gọi trên. Khu vực này hiện nay được kè đá, gạch, xung quanh trang trí hoa sen bằng đá xanh tạo cảnh quan cho khu di tích.

Đền Hai Bà Trưng còn là nơi lưu giữ nhiều di vật quý, đa dạng, phong phú về cả chủng loại và chất liệu như: gỗ, đá, đồng, sứ, giấy,… trong đó di vật gỗ chiếm đa số. Các di vật có niên đại tập trung vào triều Nguyễn như hoành phi, hương án, đại tự, câu đối, khám, kiệu, tượng thờ…được chạm khắc công phu, tinh xảo, với các đề tài trang trí: rồng mây, hoa lá, văn triện, hổ phù… Đây là những tác phẩm nghệ thuật thể hiện bàn tay tài hoa, khéo léo và tinh tế của ông cha ta trong nghệ thuật tạo tác, phản ánh nhiều mặt của đời sống xã hội và những ước vọng về cuộc sống tốt đẹp hơn.

Đền Hai Bà Trưng là nơi sinh hoạt văn hóa, tâm linh của nhân dân địa phương, qua đó những giá trị văn hóa phi vật thể đã được kết tinh và biểu hiện ở lễ hội và các trò diễn dân gian. Lễ hội đền Hai Bà Trưng được tổ chức hang năm, từ ngày 4 đến ngày mồng 10 tháng Giêng (Âm lịch). Trong đó, chính hội là ngày mồng 6, tương truyền, đây là ngày Hai Bà Trưng mở tiệc khao quân, cho nên sau này dân làng mở hội để kỷ niệm sự kiện đó, nhằm ôn lại truyền thống hào hung của các bậc tiền nhân trong buổi đầu dựng nước và giữ nước. Cứ năm năm một lần, nhân dân trong làng lại tổ chức rước kiệu Hai Bà Trưng, kiệu Thành hoàng làng Hạ Lôi.

Di tích Hai Bà Trưng chứa đựng những giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa, khoa học, nghệ thuật, kiến trúc,…. Đây là nơi gắn bó mật thiết với đời sống cộng đồng trong sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, tự hào dân tộc, sự cố kết cộng đồng… của cư dân Hạ Lôi. Di tích đã được Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 2383/QĐ -TTg, ngày 09 tháng 12 năm 2013).

Chùa Trấn Quốc – Hà Nội

Chùa Trấn Quốc là một trong những ngôi chùa cổ nhất ở Hà Nội và Việt Nam, nằm trên một bán đảo phía Nam của Hồ Tây, ở gần cuối đường Thanh Niên, quận Ba Đình, Hà Nội. Từng là trung tâm Phật giáo của kinh thành Thăng Long vào thời Lý và thời Trần với những giá trị về lịch sử và kiến trúc, chùa Trấn Quốc nổi tiếng là chốn cửa Phật linh thiêng, là điểm thu hút rất nhiều tín đồ Phật tử, khách tham quan, du lịch trong và ngoài nước.

hà nội có gì?

Chùa Trấn Quốc – Hà Nội

Chùa được xây dựng từ thời Lý Nam Đế (541 – 547), có tên là Khai Quốc. Chùa được dựng tại thôn Yên Hoa (sau được đổi là Yên Phụ) trên một bãi cạnh sông Hồng.

Đến đời Lê Thái Tông (1440 – 1442) được gọi là chùa An Quốc.

Đến thời Lê Kinh Tông (1600 – 1618) do bãi sông bị lở, chùa được dời vào một hòn đảo nhỏ trong Hồ Tây gọi là Kim Ngư (đảo cá Vàng) là địa điểm ngày nay. Nơi này đã được các vua nhà Lý dựng cung Thúy Hoa và đời Trần dựng điện Hàn Nguyên dùng làm nơi hóng mát, xem đua thuyền đánh cá.

Đời Lê Hy Tông (1680 – 1705), chùa được đổi tên gọi là Trấn Quốc.

Vào khoảng đời Lê Thần Tông (1619 – 1643), người dân hai làng Yên Phụ và Yên Quang đắp đập Cổ Ngư (ngày nay là đường Thanh Niên) chắn ngang Hồ Tây (ngăn thành hồ nhỏ là hồ Trúc Bạch hiện nay) nhân đó mới đắp luôn con đường từ đập Cổ Ngư đi vào chùa. Chùa đã được tu sửa vào những năm 1624, 1628. Đến năm 1639 được dựng thêm hậu đường, cổng lầu, hành lang tả hữu, quy mô to rộng, chạm trổ tinh khéo. Trạng nguyên khoa Đinh Sửu (1637) Nguyễn Xuân Chính đã soạn bia ghi: “Nay đắp cao nền chùa cũ, mở rộng quy mô, trước tiên dựng các tòa thượng điện, đài đốt hương, tiền đường và cửu hậu… Trước hết dựng hầu đường, cổng có gác, tiếp theo dựng luôn tả hữu hành lang, định ra từng ãy, chia ra từng tòa… huy hoàng tượng Phật, sáng ngời nơi rường chạm cột sơn, rực rỡ hoa hồng, ánh chiếu khắp tòa sen, cửa biếc…”.

Đến năm Gia Long 14 (1815) chùa được trùng tu, đúc chuông, đắp tượng, quy mô tráng lệ. Phạm Quý Thích, đậu tiến sĩ khoa 1779, soạn văn bia ghi: “Trước hết làm nhà thờ Phật, nhà thắp hương, tiền đường, cả thảy 3 tòa. Sau đó làm 2 hành lang, gác chuông, hậu đường, cả thảy 4 nếp, tất cả đều cao lớn hơn trước, đồng thời đúc tượng Phật và đúc chuông lớn”.

Năm 1821 vua Minh Mạng ra Bắc Thành đến thăm chùa, ban 20 lạng bạc để tu sửa.

Năm 1842 vua Thiệu Trị cũng đến thăm chùa, đổi tên chùa là Trấn Bắc, ban một đồng tiền vàng lớn và 299 quan tiền để tu sửa. Tuy nhiên nhân dân vẫn quen gọi là chùa Trấn Quốc.

hà nội có gì?

Chùa Trấn Quốc – Hà Nội

Cảnh quan và Kiến trúc chùa Trấn Quốc

Vào thời Hai Bà Trưng (40 – 43), khu vực xung quanh Hồ Tây dân cư rất thưa thớt, có các hang động vừa và nhỏ và rừng cây bao phủ, trong rừng còn có cả một số loài thú quý hiếm sinh tồn.

Nổi tiếng linh thiêng lại là danh thắng bậc nhất kinh kỳ, chùa Trấn Quốc xưa thường là nơi các vua chúa ngự giá đến vãng cảnh và cúng lễ vào những ngày rằm, lễ Tết. Đặc biệt vào thời Lý và thời Trần, nhiều cung điện đã được xây dựng tại đây như cung Thúy Hoa, điện Hàm Nguyên phục vụ cho việc nghỉ ngơi, thư giãn của nhà vua.

Các đời chúa Trịnh đã biến nơi đây thành hành cung (nơi ở của vua chúa khi đi chơi). Sau khi chúa Trịnh bị diệt, vua Lê Chiêu Thống hạ lệnh đốt hết những nơi chúa Trịnh đã ở. Nhờ sự bảo vệ của dân trong phường nên lính của vua Lê chỉ đốt những phòng dựng trên bè nổi quanh chùa do chúa Trịnh làm cho bọn hoạn quan và cung nữ, còn chùa vẫn giữ được nguyên vẹn.

Đến chùa, du khách không chỉ lễ Phật cầu kinh mà còn được đắm mình vào không gian của nghệ thuật của thiên nhiên hài hòa, thấy hồn mình tĩnh tại giữa những dấu xưa mang hồn đất Việt ngàn đời.

Giống hầu hết những ngôi chùa khác ở Việt Nam, kết cấu và nội thất chùa Trấn Quốc có sự sắp xếp trình tự và theo nguyên tắc khắt khe của Phật giáo. Gồm nhiều lớp nhà với ba ngôi chính là Tiền đường, nhà thiêu hương và thượng điện nối thành hình chữ Công (工).

Tiền đường hướng về phía Tây. Hai bên nhà thiêu hương và thượng điện là hai dãy hành lang. Sau thượng điện là gác chuông. Gác chuông chùa là một ngôi ba gian, mái chồng diêm, nằm trên trục sảnh đường chính.

Bên phải là nhà tổ và bên trái là nhà bia. Trong chùa hiện nay đang lưu giữ 14 tấm bia. Trên bia khắc năm 1815 có bài văn của tiến sĩ Phạm Quý Thích ghi lại việc tu sửa lại chùa sau một thời gian dài đổ nát. Công việc này bắt đầu vào năm 1813 và kết thúc vào năm 1815.

Khuôn viên chùa có Bảo tháp lục độ đài sen được xây dựng năm 1998. Bảo tháp lớn gồm 11 tầng, cao 15m. Mỗi tầng tháp có 6 ô cửa hình vòm, trong mỗi ô đặt một pho tượng Phật A Di Đà bằng đá quý. Đỉnh tháp có đài sen chín tầng (được gọi là Cửu phẩm liên hoa) cũng bằng đá quý. Bảo tháp này được dựng đối xứng với cây bồ đề lớn do Tổng thống Ấn Độ tặng khi ông đến thăm Hà Nội năm 1959. Thượng toạ Thích Thanh Nhã, Uỷ viên Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trụ trì chùa Trấn Quốc, đã giải thích sự đối xứng đó là: “Hoa sen tượng trưng cho Phật tính chân, như tính sinh ở dưới bùn mà không bị ô uế. Bồ đề là trí giác, trí tuệ vô thượng. Tất cả đều hàm ý nghĩa bản thể và hiện tượng của các pháp”.

Với những giá trị về lịch sử và kiến trúc đó, chùa được công nhận là Di tích Lịch sử Văn hoá cấp quốc gia vào năm 1989. Chùa Trấn Quốc ngày nay không chỉ nổi tiếng là chốn cửa Phật linh thiêng, thu hút rất nhiều tín đồ Phật tử đến hành lễ mà còn là điểm thu hút khách tham quan, du lịch trong và ngoài nước khi đến du lịch Hà Nội.

Cầu Long Biên – Hà Nội

Cầu Long Biên là cây cầu thép đầu tiên bắc qua sông Hồng. Trực thuộc quận Long Biên, cây cầu này nối liền 2 quận của thành phố Hà Nội là quận Long Biên và quận Hoàn Kiếm. Cầu Long Biên do Pháp xây dựng với tên gọi ban đầu là Dourmer. Tên gọi cầu Long Biên được đặt kể từ khi thủ đô Hà Nội được giải phóng và tồn tại cho đến ngày hôm nay.

hà nội có gì?

Cầu Long Biên – Hà Nội

Được chính thức khởi công xây dựng vào ngày 12 tháng 9 năm 1898, Cầu Long Biên là cây cầu đầu tiên bắc qua sông Hồng do thực dân Pháp xây dựng. Với tổng vốn đầu tư 5,390,794 Franc Pháp cây cầu này là công trình lớn nhất Đông Dương thời bấy giờ.

Sau hơn 3 năm xây dựng, ngày 28 tháng 2 năm 1902 cầu Long Biên chính thức được khánh thành với tên gọi cầu Dourmer – tên của vị toàn quyền Đông Dương sở tại. Cây cầu Long Biên được kỳ vọng là công cụ phục vụ khai thác thuộc địa đắc lực của thực dân Pháp tại Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung.

Cầu Long Biên là công trình tầm cỡ khu vực và thế giới thời bấy giờ. Cầu gồm 19 nhịp dầm thép dài đặt trên 20 trụ cao bề thế với tổng chiều dài là 2,290 mét. Ngoài ra còn có 896 mét đường xây bằng đá dẫn lên đầu cầu phía Tây. Khi được khánh thành, cầu Long Biên là cây cầu dài thứ hai trên thế giới chỉ sau cầu Brooklyn ở Mỹ.

Cầu Long Biên rộng 4,75 mét, được chia làm 3 phần đường chính. Hai bên là đường dành cho xe cơ giới và người đi bộ, ở giữa là đường sắt đơn dành cho xe lửa hoạt động. Đường hai bên bao gồm 2, 6 mét dành cho xe ô tô, xe máy, xe thô sơ và 0,4 mét ngoài cùng dành cho người đi bộ.

Cầu Long Biên được thiết kế và thi công bởi những công ty nổi tiếng hàng đầu tại Pháp nên đảm bảo được cả yếu tố kỹ thuật và nghệ thuật xây cầu hiện đại, tinh tế nhất. Toàn bộ thân cầu được làm bằng thép với kết cấu thép tầng tầng lớp lớp được thiết kế rất hài hòa ấn tượng. Nhìn từ xa cầu Long Biên giống như một con rồng khổng lồ uốn lượn vừa mềm mại vừa mạnh mẽ, hiên ngang.

hà nội có gì?

Cầu Long Biên – Hà Nội

Không chỉ nổi tiếng bởi là cây cầu lâu năm và kiến trúc độc đáo, cầu Long Biên được người dân Hà thành nhắc tới như một nhân chứng lịch sử oai hùng của thủ đô. Là cây cầu đầu tiên bắc qua sông Hồng nên cầu Long Biên trở thành điểm giao thông quan trọng thúc đẩy giao thương đi lại và đẩy nhanh sự phát triển của cả khu vực nội ngoại thành Hà Nội và các khu vực lân cận lúc bấy giờ.

Với vai trò tuyến giao thông quan trọng lại đúng thời chiến tranh bom lửa, cầu Long Biên là trọng điểm vận chuyển, đánh phá, phải gánh chịu rất nhiều tàn phá khốc liệt. Cầu Long Biên đã từng bị nghiêng vì những dòng chiến xa thực dân Pháp điều quân tăng cường cho chiến dịch Điện Biên Phủ từ trong thành phố ra sân bay Gia Lâm. Năm 1954 cầu Long Biên là nơi đưa đón những đoàn quân chiến thắng ở chiến khu về giải phóng thủ đô và cũng là nơi đoàn quân viễn chinh Pháp rút khỏi Hà Nội.

Trong chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất (1965 – 1968) cầu Long Biên bị máy bay Mỹ ném bom 10 lần làm hỏng 7 nhịp cầu và 4 trụ lớn. Chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai năm 1972, cầu Long Biên bị ném bom 4 lần làm 2 trụ lớn bị cắt đứt và phá hỏng 1500 mét cầu.

Để bảo vệ cầu, Bộ đội phòng không và công binh Việt Nam đã bố trí các lực lượng vũ trang, xây dựng các chốt trực tác chiến, các trận địa phòng ngự và chống trả bắn phá giặc dũng cảm và quyết liệt. Vì thế mà cầu Long Biên còn là biểu tượng cho sức mạnh phi thường của Quân đội thủ đô nói riêng và Quân đội Cách mạng Việt Nam nói chung.

Hòa bình được lập lại cây cầu tuy không phải chịu bom rơi đạn lạc nữa nhưng lại phải oằn mình gánh sức nặng giao thương đi lại ngày càng lớn của sự phát triển không ngừng của thủ đô và đất nước cho tới khi chiếc cầu Chương Dương khánh thành. Do xuống cấp hiện nay cầu Long Biên chỉ phục vụ xe máy, xe đạp, người đi bộ và tàu hỏa.

Di tích lịch sử Đền Hát Môn – Hà Nội

Đền Hát Môn, còn gọi là đền Quốc tế, đền Hai Bà Trưng, thuộc địa bàn xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội. Theo một số tài liệu ghi lại, vùng Hát Môn là nơi Hai Bà Trưng tổ chức hội quân sĩ sau khi hội tại thành Phong Châu. Đây cũng là nơi tuẫn tiết của Hai Bà Trưng khi cuộc khởi nghĩa thất bại.

hà nội có gì?

Di tích lịch sử Đền Hát Môn – Hà Nội

Tương truyền, đền Hát Môn được khởi dựng sau khi Hai Bà Trưng hoá sinh vào cõi bất diệt. Đền quay hướng Tây Nam gồm các công trình kiến trúc chính: quán Tiên, miếu Tạm ngự, nghi môn, nhà phương đình, đàn Thề, tam quan, tiền tế, trung đường, hậu cung, tả hữu mạc, gò Giấu ấn, nhà tưởng niệm bà Nguyễn Thị Định, nhà khách, khu phụ…

Quán Tiên: là một kiến trúc nhỏ, xây bằng gạch, cửa mở về hướng đền kiểu vòm cuốn, có mái đao cong, nền cao hơn mặt đường 45cm, tạo ba bậc lên nền quán. Theo cuốn thần tích của làng chép lại, thì nơi đây vốn là quán hàng bán bánh trôi nước. Khi nghĩa quân của Hai Bà Trưng hội tại đàn Thề, bà hàng bánh trôi đã dâng cả gánh bánh để Hai Bà ăn trước khi ra trận dẹp giặc. Ngôi quán nhỏ này được dân làng dựng lên để tưởng nhớ công ơn đối với bà hàng bánh trôi.

Miếu Tạm ngự: nằm phía trước bên phải đền chính, có mặt bằng dạng chữ Đinh, gồm tiền tế và hậu cung. Nhà tiền tế ba gian, kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi, bờ nóc đắp kiểu bờ đinh. Các bộ vì kết cấu kiểu vì “giá chiêng, hạ kẻ bẩy hiên”. Toà hậu cung ba gian, xây nối liền với tiền tế, hệ vì đỡ mái có kết cấu tương tự nhà tiền tế. Phía trước mở hệ thống cửa kiểu bức bàn. Công trình kiến trúc này là nơi tạm ngự của Thánh Bà. Khi mùa nước lũ hàng năm, khu đền chính bị ngập, dân làng rước tượng, ngai thờ và toàn bộ đồ thờ tự của đền về đền Tạm ngự, hết mùa nước lũ lại rước Thánh hoàn cung.

Nghi môn ngoại: có niên đại khởi dựng vào thời Nguyễn, được làm theo kiểu tứ trụ xây gạch, đỉnh trụ đắp nổi hình tứ phượng, lân. Phần lồng đèn đắp nổi hình tứ linh (long, ly, quy, phượng). Thân trụ có câu đối chữ Hán. Từ nghi môn theo triền đê xuống là khu đền chính, bên phải có hồ nước, giữa hồ có nhà thủy đình (phương đình) mới xây dựng gần đây. Bên trái đường trên mặt đê là nhà tưởng niệm nữ tướng – nữ anh hùng Nguyễn Thị Định.

Đàn Thề: được xây dựng mới ở phía trước cổng tam quan, cột đá thề được tạo kiểu trụ hình tháp, bốn mặt có khắc chữ Hán, đặt trên nền cao hơn mặt sân 65cm, trổ năm bậc lên, mặt hướng vào đền khắc nội dung lời thề của Hai Bà Trưng. Bao quanh đàn thề là tường bao lửng, phía ngoài đặt các tượng voi và ngựa bằng đá.

Nghi môn: gồm ba gian kiểu chồng diêm, hai tầng mái. Ba cửa vào đền làm kiểu ván bưng. Các bộ vì đỡ mái được kết cấu theo dạng “giá chiêng, hạ kẻ, bẩy hiên”, mái lợp ngói mũi, nền lát gạch Bát.

Nhà bia: hai nhà bia được xây ở vị trí phía ngoài dãy nhà tả/ hữu mạc, trên nền cao hơn mặt sân 30cm, kiểu phương đình, mái lợp ngói ta, bốn đầu đao tạo cong vút.

Tả/ hữu mạc: mỗi dãy năm gian chạy dọc theo sân đền, kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi, các bộ vì đỡ mái kết cấu dạng “giá chiêng, hạ kẻ”, được đặt lên tường bổ trụ trốn một hàng cột.

Nhà đại bái: gồm năm gian, xây gạch kiểu tường hồi bít đốc, các bộ vì đỡ mái kết cấu kiểu “thượng giá chiêng, chồng rường, cốn mê, bẩy hiên”, hoành mái phân “thượng tam – hạ tứ”, mái lợp ngói ri, nền lát gạch Bát. Trang trí trên kiến trúc tập trung dày đặc ở đầu dư, cốn, xà nách, bẩy, ván gió dưới dạng chạm nổi, chạm lộng …, với các đề tài rồng, tứ linh. Đây là sản phẩm nghệ thuật từ thời Lê Trung hưng đến thời Nguyễn. Gian giữa treo hoành phi, các cột cái đều treo câu đối ca ngợi công đức Hai Bà.

Tiền tế: gồm năm gian, xây gạch kiểu tường hồi bít đốc, nền nhà cao hơn mặt sân 30 cm, xung quanh bó gạch vỉa, các bộ vì kết cấu“thượng rường giá chiêng, hạ bẩy hiên”.

Hậu cung: gồm ba gian, xây trên nền cao hơn mặt sân, kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi. Phần mái của tòa này được nối với tòa trung đường qua phần mái của nhà cầu. Bộ khung gỗ đỡ mái gồm bốn bộ vì kèo dạng “chồng rường”. Trang trí trên kiến trúc này chủ yếu là phượng. Gian giữa cung cấm được tạo một khám gỗ bưng kín bằng các ván gỗ, là nơi thờ Hai Bà.

Nhà khách: gồm năm gian, kiểu tường hồi bít đốc. Các bộ vì đỡ mái tạo kiểu “thượng giá chiêng, hạ kẻ, bẩy hiên” cột trốn.

Gò Giấu Ấn: ở phía sau hậu cung đền. Tương truyền, đây là dấu tích nơi Hai Bà Trưng cất giấu ấn tín trước lúc rút quân hoá thân về cõi vĩnh hằng ở cửa sông Hát. Hiện nay, gò Giấu Ấn được bó vỉa, xây tường gạch bao quanh.

Đền Hát Môn còn bảo lưu được nhiều di vật, cổ vật có giá trị về văn hoá, lịch sử, gồm: 293 di vật, cổ vật với nhiều chủng loại và phong phú chất liệu, như: gỗ, đá, đồng, sứ, giấy, kim loại… có niên đại trải dài từ thời Lê, Tây Sơn, Nguyễn đến nay.

Hội đền Hát Môn được tổ chức hằng năm vào ngày 6 tháng 3 (Âm lịch), với các nghi lễ và trò diễn dân gian thu hút đông đảo nhân dân địa phương và khách thập phương. Đặc biệt, tục làm bánh trôi và lễ rước bánh trôi dâng Hai Bà đã trở thành một sinh hoạt văn hóa độc đáo của vùng đất này.

hà nội có gì?

Di tích lịch sử Đền Hát Môn – Hà Nội

Trong thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ, Đền Hát Môn được chọn làm nơi sinh hoạt, luyện tập của dân quân du kích địa phương. Những sự kiện lịch sử và hệ thống di tích quanh vùng sông Hát góp phần làm giàu thêm nội dung và tôn cao giá trị của đền thờ Hai Bà Trưng.

Với những giá trị đặc biệt, di tích Đền Hát Môn (huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội) đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt (tại Quyết định số 2383/QĐ-TTg ngày 09/12/2013).

Gò Đống Đa – Hà Nội

Gò Đống Đa (còn gọi là Công viên Văn hóa Đống Đa) thuộc phường Quang Trung, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Sử sách cũ ghi lại và theo hồi cố của các cụ cao niên ở làng Thịnh Quang, Gò Đống Đa xưa kia nằm tại khu vực gần phía ngoài Kinh đô Thăng Long, thuộc đất làng Khương Thượng, huyện Quảng Đức, phủ Thuận Thiên. Đây cũng là một trong các bãi chiến trường diễn ra trận đại phá quân Thanh của Hoàng đế Quang Trung mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789).

hà nội có gì?

Gò Đống Đa – Hà Nội

Quang Trung Hoàng đế (1753 – 1792) hay Bắc Bình Vương, tên thật là Nguyễn Huệ, sau đổi tên thành Nguyễn Quang Bình – là vị Hoàng đế thứ hai của Nhà Tây Sơn, sau khi Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc thoái vị và nhường ngôi cho Ông.

Quang Trung không những là một vị tướng lĩnh quân sự xuất sắc, mà còn là nhà chính trị tài giỏi, đưa ra nhiều cải cách kinh tế, xã hội nổi bật trong lịch sử Việt Nam. Ông và hai người anh em được biết đến với tên gọi “Tây Sơn tam kiệt”, là những lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, chấm dứt cuộc nội chiến phân tranh giữa nhà Trịnh (phía Bắc) và nhà Nguyễn (phía Nam), lật đổ hai tập đoàn phong kiến này cùng nhà Hậu Lê, chấm dứt tình trạng phân biệt Đàng Trong – Đàng Ngoài kéo dài suốt 2 thế kỷ. Ngoài ra, Quang Trung còn là người đánh bại các cuộc xâm lược Đại Việt của Xiêm La từ phía Nam, của Đại Thanh từ phía Bắc. Trong 20 năm liền đã trải qua hàng chục trận đánh lớn và chưa hề thua một trận. Đồng thời, khi ở cương vị Hoàng đế, Ông cũng tỏ rõ tài cai trị khi đề ra nhiều kế hoạch cải cách tiến bộ trong kinh tế, văn hóa, giáo dục, quân sự,… nhằm xây dựng đất nước và tiếp thu khoa học kỹ thuật hiện đại từ phương Tây.

Cuộc đời và sự nghiệp của Hoàng đế Quang Trung – Nguyễn Huệ được các sử gia đánh giá là đã đóng góp quyết định vào sự nghiệp thống nhất đất nước của triều đại Tây Sơn. Công lao trị nước bình thiên hạ của ông được các bộ sử của nhà Hậu Lê và nhà Nguyễn, các sử gia cận đại, hiện đại đánh giá rất cao. Khi Ông mất, nhân dân nhiều nơi đã xây lăng, lập đền thờ, dựng tượng đài và bảo tàng để tưởng nhớ công lao của Ông.

hà nội có gì?

Gò Đống Đa – Hà Nội

Về di tích lịch sử Gò Đống Đa, hiện có rất nhiều tài liệu và các công trình nghiên cứu của các chuyên gia và các nhà khoa học về những sự kiện đã từng diễn ra tại đây và các chiến trường phụ cận. Chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa nói chung và chiến thắng Đống Đa nói riêng mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789) là một trong những trận chiến chống ngoại xâm nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam và được các nhà nghiên cứu Việt Nam đánh giá là chiến công oanh liệt nhất của Hoàng đế bách chiến bách thắng Quang Trung – Nguyễn Huệ. Chiến thắng này đã chặn đứng ý định xâm chiếm Đại Việt của nhà Thanh dưới thời Càn Long thịnh trị. Vì vậy, nói về giá trị đặc biệt của di tích này là nói đến giá trị lịch sử, về nghệ thuật quân sự đặc sắc với những bước tiến quân thần tốc, bất ngờ, táo bạo tạo lên chiến thắng vang dội, làm cho quân địch không kịp trở tay.

Di tích Gò Đống Đa nguyên xưa là một trong những quả gò thuộc xứ Đống Đa. Trải qua năm tháng, trên các gò đống đó, cây cối mọc um tùm, nhiều nhất là cây đa nên nhân dân thường gọi những gò đống đó là gò Đống Đa. Địa danh có những gò đống đó gọi là xứ Đống Đa. Đến giữa thế kỷ XIX, các gò đống này vẫn còn y nguyên. Theo tấm bản đồ Hà Nội vẽ năm Tự Đức 26 (1873) thì chỉ còn 6 gò trong khu vực ghi là Đống Đa xứ. Trong khoảng đời Nguyễn và Pháp thuộc, những chiến tích lịch sử đó không được bảo vệ nên đã bị phá hoại dần, nhiều gò bị san bằng. Hiện nay chỉ còn lại hai gò được gọi là gò Đống Đa, tức gò thứ 13 lập thêm năm 1851 (trên gò có đền Trung Liệt nên gọi là gò Trung Liệt) và gò đống Thiêng (trong khu Thái Hà ấp, trên gò trước đây có chùa của làng Thịnh Quang, gọi là chùa Thiêng). Phía sau chùa Bộc, giáp chùa Đồng Quang còn gò Đầu Lâu nhưng đã bị phá từ lâu, nhân dân chỉ còn ghi nhớ vị trí và tên gò.

Năm 2010, nhân Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, di tích Gò Đống Đa đã được tu bổ, tôn tạo và xây mới một số hạng mục công trình với tổng diện tích hơn 22.120,8m2. Hiện tại, Gò Đống Đa bao gồm các hạng mục: Cổng, Gò Đống Đa, nghi môn, tượng đài Quang Trung, đền thờ Hoàng đế Quang Trung và các công trình phụ trợ.

Một số di tích liên quan tới di tích Gò Đống Đa:

Chùa Bộc:

Trong trận Đống Đa, chùa bị thiêu trụi (1789), năm 1792 được trùng tu lại trên nền cũ, làm nơi quy y cho vong hồn quân Thanh và được đổi tên là chùa Thiên Phúc. Tuy nhiên, nhân dân vẫn quen gọi là Chùa Bộc để chỉ xác giặc bị phơi ra khắp nơi (Bộc có nghĩa “phơi bày”, ngôi chùa được xây dựng ngay nơi chiến địa mà quân thù chết phơi thây).

hà nội có gì?

Chùa Bộc

Chùa có liên hệ mật thiết với chiến thắng Kỷ Dậu (1789) của quân Tây Sơn. Ngay phía trước chùa Bộc vẫn còn một cái hồ, được gọi là hồ Tắm Tượng, nơi đội hình voi của nghĩa quân Tây Sơn tắm sau khi hạ được đồn Khương Thượng. Sau lưng chùa có di tích Loa sơn, nơi tướng giặc Sầm Nghi Đống sau khi thất trận đã thắt cổ tự tử. Trong chùa còn có Thanh miếu – tức miếu thờ Sầm Nghi Đống cũng như quân lính nhà Thanh đã chết trong chiến trận.

Chùa Kim Sơn:

hà nội có gì?

Chùa Kim Sơn

Khu vực này trước kia là bãi tha ma, thi hài các chiến sĩ tử trận trong trận Đống Đa (1789) được đưa vào an táng tại nghĩa địa này. Đây cũng là nơi cầu siêu cho những linh hồn binh sĩ tử nạn trong chiến dịch Ngọc Hồi – Đống Đa, giải phóng Kinh thành Thăng Long vào mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789).

Chùa Nam Đồng:

hà nội có gì?

Chùa Nam Đồng

Chùa Nam Đồng (có tên là Càn An tự), nằm đối diện với di tích Gò Đống Đa. Đây là một ngôi chùa cổ, hiện còn lưu giữ hai tấm bia có các niên đại 1621 (có nhắc đến xứ Đống Đa) và 1697, một quả chuông đúc năm 1812. Như vậy, địa danh này có trước khi xảy ra cuộc chiến năm 1789. Sau khi kết thúc chiến tranh, ngôi chùa này là một trong những chốn tâm linh hương khói cho những binh lính tử trận trong chiến dịch Ngọc Hồi – Đống Đa.

Với giá trị đặc biệt nêu trên, Di tích lịch sử Gò Đống Đa đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt tại Quyết định số 1820/QĐ-TTg ngày 24/12/2018.

Di tích kiến trúc nghệ thuật đình So – Hà Nội

Theo “Sơn Tây tỉnh địa chí” của tác giả Phạm Xuân Độ có ghi: “Đình Sơn Lộ làm vào đời Hậu Lê, năm Dương Đức thứ III (1667), đình xây lối cổ, dài 90 thước, rộng 10 thước, theo hình chữ công, xung quanh có bao lan gỗ và sân lát gạch. Hậu cung có nghi môn che kín. Hai bên đình là hai nhà giải vũ. Đằng trước có chiếc cổng ba gian, làm theo lối tam quan các chùa và trông ra một hồ bán nguyệt, rộng ngót 7 mẫu, ở giữa nổi lên ba gò đất hình tròn. Lươn quanh mé hồ, là đường đê, đi xe hơi được”. Theo tư liệu khảo sát của phòng Bảo tồn Bảo tàng tỉnh Sơn Tây cũ thì: Các già làng địa phương cho biết đình So lúc đầu xây dựng ở xóm Đông, sau mới chuyển ra địa điểm hiện nay, đình đã qua nhiều lần tu sửa, gần đây nhất vào các năm 1924, 1928 và 1952.

hà nội có gì?

Di tích kiến trúc nghệ thuật đình So – Hà Nội

Bia “Đại đình bi ký” dựng năm Cảnh Hưng 43 (1782) tại đình ghi chép về việc dựng đình như sau: “Nay phụng sự việc xây cất ngôi đình này. Nhằm ngày mười ba tháng sau, giờ tốt tháng Giáp Thân năm Tân Sửu (1781) phạt mộc. Theo đó ngày tới 20/8 khởi công. Ngày mồng Bảy tháng Giêng năm Nhâm Dần đặt cột đình. Tháng Ba trong năm công việc hoàn tất. Đến tháng Năm hoàn thành ngôi đình”.

Sách “Di tích Hà Tây” có nhắc tới một số di vật hiện còn lưu giữ trong đình: “Đôi rồng đá ở trước tòa Đại đình toàn thân được chạm cẩn thận, chi tiết với đường nét chắc khỏe, dứt khoát, mà vẫn mềm mại, có lẽ đây là đôi rồng trong không nhiều rồng đẹp nhất của thế kỷ XIX… Dựa theo bia thì đình được làm vào cuối thế kỷ XVII, nhưng hiện chỉ còn vài đầu dư và một số mảng chạm của giai đoạn đó, còn hầu như đã được làm lại vào thế kỷ XIX… Kiến trúc Hậu cung chủ yếu bào trơn đóng bén như một vài mảng trang trí của thế kỷ XVII còn sót lại, khiến ta có thể nghĩ rằng đình So là một trong không nhiều kiến trúc có Hậu cung (hình chuôi vồ hay chư công) sớm nhất nước ta. Hiện vật của đình có nhiều đồ quý. Đặc biệt là hai khám mui luyện là cổ kiểu, hạc… mang nghệ thuật đầu thế kỷ XVIII”.

Căn cứ các tư liệu nêu trên, cùng với hiện trạng kiến trúc và hiện có thể nhận định đình So được khởi dựng vào nửa cuối thế kỷ XVII. Sau đó hơn trăm năm, đình được chuyển về xây dựng lại ở vị trí hiện nay và khắc bia lưu tại đình vào năm Cảnh Hưng 43 (1782).

Đình So thờ ba anh em họ Cao đã có công phù giúp vua Đinh dẹp loạn 12 sứ quân và trở thành những vị thần linh thiêng của làng. Nhân dân làng So xưa kia và ngày nay thờ các thần để tưởng nhớ công lao với dân với nước và cầu mong các thần phù hộ cho dân làng bình an, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. Vì sự hệ trọng trong tục thờ Thành hoàng làng như vậy nên việc chuẩn bị cho các nghi thức tế lễ rất chu đáo, cẩn trọng trong ngày sinh, ngày hóa, ngày thắng trận khao quân của Thành hoàng cũng chính là ngày hội làng. Việc thờ cúng các nhân vật lịch sử trên làm thần thành hoàng là để giáo dục các thế hệ phải biết tôn trọng, nhớ về cội nguồn, tiên tổ, giáo dục tinh thần đoàn kết cộng đồng để cùng nhau xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn.

Đình So là một kiến trúc nổi tiếng và khá quy mô của vùng Phủ Quốc xưa, nổi danh với câu ca “ Đẹp đình So, to đình Cấn”. Đình So nằm trên thế đất hình con quy theo thế gối sơn đạp thủy. Phía sau đình là ngọn núi đất Vĩ Quy làm thế tựa, phía trước đầu Quy là tòa nghi môn trông xuống hồ bán nguyệt. Bên ngoài đê là cánh đồng bãi màu mỡ ven dòng sông Đáy linh thiêng. Quanh đình là vườn cây lưu niên tạo không gian xanh mát, tĩnh lặng cho ngôi đình.

hà nội có gì?

Di tích kiến trúc nghệ thuật đình So – Hà Nội

Nghi môn: hay còn được gọi là ngũ môn với chính môn lớn có ba cửa với hai cửa tả, hữu môn, đó là nơi xác định khuôn viên của đình và cũng là công trình kiến trúc đầu tiên, là ranh giới giữa thế giới phàm trần và cõi linh thiêng. Nghi môn có kích thước rất lớn với nhiều mảng chạm trang trí với các đề tài tứ linh, tứ quý: long, ly, quy, phượng; tùng, cuc, trúc, mai.

Từ Nghi môn, qua một khoảng sân lát gạch, bước qua 5 bậc thềm đá là lên tới tòa Đại đình. Đại đình So bao gồm Đại bái, ống muống và hậu cung.

Đại bái: là nơi thực hành các hoạt động sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng – tôn giáo. Trong tòa kiến trúc này được phân chia rõ ràng về mặt chức năng như sau: Gian giữa (gian lòng thuyền) là nơi thực hành các nghi lễ tín ngưỡng – tôn giáo vào các dịp lễ hội, 4 gian, 2 chái và 2 dĩ còn lại hai bên được tôn cao bằng các ván sàn và làm nơi hội họp mỗi khi có công to việc lớn của làng xã.

Tòa Đại bái có tổng diện tích khoảng 300m2, toàn bộ xung quanh được bao kín bởi các hàng cửa bức bàn. Các cửa này thường ngày chỉ mở một số cửa để tiện cho việc ra vào của dân làng và khách thập phương đến lễ bái và thăm di tích, vì cánh cửa chính của tòa Đại bái thì ngày thường được khép kín, chỉ được mở trong những ngày có việc lớn của làng.

Ống muống: ở gian giữa tòa Đại bái nối với Hậu cung, được xây dựng cao hơn phần nền tòa Đại bái là 0,4m so với hai bên là hai dãy bậc thang dật tam cấp dẫn lên. Cấu trúc không gian của tòa Ống muống là một hình vuông theo trục của con đường thần đạo dẫn từ Đại đình vào Hậu cung, hai bên phải và trái được bao kín bởi tường gạch. Bốn góc có bốn cột lớn đỡ lấy toàn bộ hệ mái của tòa nhà này.

Hậu cung: còn được gọi là nội điện, chỗ thâm nghiêm, nơi thờ Thánh của cả làng. Trước kia nó được nối liền với Đại đình thành hình chuôi vồ và hai giải vũ. Có ba cửa, hai cửa nhỏ hai bên, cửa lớn nằm ở giữa có hai cánh để thực hành những nghi thức tế lễ đối với Thần, còn trong các ngày thường thì Hậu cung luôn đóng kín. Vào những ngày lễ hội chỉ có hai cụ từ mới được phép vào để đưa các đồ tế dâng lên Thần, mọi nghi lễ của người dân đều vái vọng từ ngoài vào. Điều này thể hiện sự tôn nghiêm của vị Thành hoàng làng, vừa uy linh lại vừa huyền bí. Ở chính giữa có một nhang án, trên đặt các đồ thờ và đặc biệt là ba long ngai lơn đươc sơn son thiếp vàng cùng nhiều đố tế tự khác.

Nhìn chung, về mặt bố cục mặt bằng tổng thể, đình So cũng như các đình khác của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ có xu hướng trải rộng, nhưng đây là một trong những ngôi đình có không gian đẹp và được giữ lại một cách đầy đủ và trọn vẹn.

Đình So hiện lưu giữ được hệ thống tư liệu thành văn gồm: bia đá “Đại đình bi kí” có niên đại vào năm Dương Đức năm thứ 3 (1673), bia đá có niên đại vào năm Cảnh Hưng thứ 43 (1783), tảng đá kê chân cột hình hoa sen, rồng đá, nhang án gỗ chạm khắc khá tỉ mỉ mang phong cách nghệ thuật nửa đầu thế kỷ XVII. Hiện vật giấy gồm cuốn thần tích, hương ước và 42 Đạo sắc, sớm nhất có niên đại là năm Hoằng Định thứ 2 (1601) và muộn nhất là năm Khải Định thứ 9 (1924),…

Với giá trị đặc biệt nêu trên, đình So đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt tại Quyết định số 1820/QĐ-TTg ngày 24/12/2018./.

Di tích kiến trúc nghệ thuật chùa Tây Phương – Hà Nội

Chùa Tây Phương (Sùng Phúc tự, chùa Tây) tọa lạc trên núi Câu Lậu, thuộc xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội. Theo một số nhà nghiên cứu, năm Giáp Dần (1554) đời Mạc Phúc Nguyên (1547 – 1561) niên hiệu Quang Bảo năm thứ nhất, chùa Tây Phương đã được làm quy mô như ngày nay. Năm Canh Tý (1660), chúa Trịnh Tạc (1657 – 1682) cho tu sửa chùa và làm Tam quan. Vào thời vua Lê Huy Tông, Uy vương Trịnh Giang cũng tu sửa chùa và tạc thêm tượng Phật tại chùa. Chùa quay hướng Đông, trông ra gò Đồng Sộng và gò Kim Quy (núi Nủ Rùa), hướng Tây có dòng Tích Giang, hướng Nam có núi Con Voi, phía Đông Nam có núi Lý Ngư, phía Tây Bắc có đỉnh Ba Vì, bao gồm các hạng mục: Tam quan hạ, Tam quan

hà nội có gì?

Di tích kiến trúc nghệ thuật chùa Tây Phương – Hà Nội

Tam quan hạ: nằm sát chân núi, gồm 4 trụ biểu: 2 trụ giữa nhô cao, đỉnh trụ đắp tứ phượng chầu, dưới là ô lồng đèn, thân trụ soi gờ kẻ chỉ, đế thắt cổ bồng; 2 trụ bên kết cấu tương tự, nhưng đỉnh trụ đắp búp sen, 3 mặt để trống, mặt trước đắp đôi câu đối chữ Hán.

Tam quan thượng: được xây trên nền kẻ đá ong, cao 50cm, giật 3 cấp, gồm có 4 cột xây bằng gạch, trên đỉnh 2 cột ngoài là hai búp sen, phía dưới có đấu vuông thót đáy. Dưới đấu vuông là một chỏm cong mui luyện đắp cờ nổi dạng “dạ cá” uốn cong ở đầu đao, sau đến lồng đèn hình vuông với những ô hộc, khắc chìm sâu trong lòng cột, mặt trước của hai cột ngoài cùng có viết câu đối chữ Hán. Hai cột trụ lớn ở bên trong cao hơn, đỉnh trụ có kết cấu dạng đuôi phượng lá lật, vuốt ngược lên chụm vào nhau, phía dưới trang trí giống cột hai bên.

Miếu Sơn thần (đền Đức ông): nằm phía bên trái chùa, là một ngôi nhà 4 gian nhỏ, thấp, vừa là miếu Sơn thần, vừa là nơi thờ Đức Ông; xây theo kiểu tiền đao hậu đốc, lợp ngói ri.

Chùa chính: tọa lạc trên đỉnh núi Câu Lâu, kiến trúc kiểu chữ “Công”, bao gồm Tiền đường, Trung đường và Thượng điện. Cả 3 tòa nhà đều có kết cấu kiến trúc khung gỗ kiểu chồng diêm, hai tầng tám mái “tầu đao lá mái”, giữa hai tầng là cổ diêm, được bưng kín bằng những tấm ván đố. Tiền đường và Thượng điện đều xây 5 gian 2 chái với 6 bộ vì nóc, cao 1m; Trung đường được thu ngắn chiều ngang chỉ còn 3 gian 2 chái, 4 bộ vì kèo, nhưng lại có mái thượng diêm cao vượt lên là 1,40m. Mặt trước Tiền đường bưng cửa gỗ bức bàn ở 3 gian giữa, hai bên xây gạch Bát Tràng để trần, chạy viền theo ba tòa nhà.

Kết cấu khung gỗ của các tòa có sự liên kết các vì bởi các hàng xà theo chiều ngang và dọc. Các bộ vì kèo chính của cả 3 tòa được liên kết theo kiểu “chồng rường bẩy hiên” với 4 hàng chân cột, kết hợp với 2 cột trốn được đặt trên xà hạ. Các chân cột đều được kê trên các chân tảng lớn, bằng đá âm dương, trên có chạm hình hoa sen. Cả 3 tòa đều lợp ngói mũi hài cỡ lớn, phía dưới là một lớp ngói lót 5 màu (đỏ, xanh lục, xanh lam, vàng và trắng) vừa có tác dụng trang trí, vừa mang ý nghĩa Phật đạo, tượng trưng cho chiếc áo cà sa hoặc ví như 5 màu của bông sen thanh khiết. Hai đầu kìm có hai đấu vuông thót đáy, bờ nóc đắp nổi rồng, đuôi theo kiểu vân xoắn. Bờ dải được trổ thủng các hình tròn dẹt xen kẽ, các con sô được làm dưới dạng những con lân đang chạy xuống. Từ chỗ con lân chạy ra các đầu đao là những bờ guột. Đầu guột trong được chạm một con rồng đang trong tư thế chạy ngược trở lại với đuôi được làm lớn hơn dưới hình thức các vân xoắn. Guột ngoài đắp thành bờ lớn bay cong lên, còn đầu đao lớn nhất được đắp nổi rồng với đầu ngóc cao trong tư thế quay vào.

Trang trí trên kiến trúc được thể hiện hầu như ở khắp mọi nơi trên các vì nóc, mái trên, xà bảy dưới dạng ván lá gió, trên diềm mái, vỉ ruồi… chạm khắc nổi với những đề tài vân mây, hổ phù, tứ linh, tứ quý, cánh sen, hình giả đấu ba chạc làm nền cho các đề tài…

Nhà Tổ – nhà Mẫu: ba gian hai dĩ, kết cấu kiểu chữ Nhị, bên ngoài thờ Tổ, bên trong thờ Mẫu. Các vì chính theo kiểu “vì kèo giá chiêng”. Ba gian giữa được bưng bằng cửa bức bàn, hai gian chái cửa ván đố. Trên bộ vì nóc và cốn được thay bằng kết cấu chồng rường – được trang trí hoa lá, đao mác cách điệu. Tại bốn chiếc cốn này, có chạm nổi hình cây cỏ cùng mai, tùng, cúc, trúc được thể hiện trong các đề tài mai điểu, trúc tước, cúc điệp, tùng lộc…

Nhà khách: mới được phục dựng gần đây, nằm ở bên phải chùa. gồm 7 gian, tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ri, hai bờ dải thoải dần theo hình tay ngai. Các bộ vì hiên là theo kiểu kèo kẻ, bào trơn đóng bén, vì bên trong kiểu “giá chiêng kẻ ngồi”, hai bộ vì hồi kiểu ván mê đố lụa.

hà nội có gì?

Di tích kiến trúc nghệ thuật chùa Tây Phương – Hà Nội

Chùa Tây Phương là di sản văn hóa mang giá trị đặc biệt thể hiện qua nghệ thuật kiến trúc đỉnh cao (về tỷ lệ hình học, mỹ thuật, khoa học), chạm khắc, tạc tượng… từ đầu bẩy, các bức cốn, xà nách, ván long… đều chạm trổ đề tài trang trí truyền thống, như: hình lá dâu, lá đề, hoa sen, hoa cúc, rồng, phượng, hổ phù… rất tinh xảo. Hệ thống tượng Phật là điểm đặc sắc nhất, có thể coi đây như là một Bảo tàng tượng Phật của Việt Nam. Các pho tượng Phật được làm bằng gỗ mít, được tạo tác công phu, tinh xảo, giá trị nghệ thuật điêu khắc vào bậc nhất nước ta. Phần lớn các tượng này có niên đại khoảng cuối thế kỷ XVIII, một số tượng khác được tạc vào giữa XIX. Trong đó, tiêu biểu là các pho tượng Tuyết Sơn, Thập bát vị La Hán, Bát Bộ Kim Cương… hội tụ đầy đủ và tạo ấn tượng thẩm mỹ sâu đậm về nền điêu khắc cổ truyền.

Có thể nói lịch sử hình thành chùa Tây Phương diễn ra cùng với quá trình phát triển Phật giáo của dân tộc. Những tấm bia đá, minh văn, hoành phi câu đối và những truyền thuyết dân gian là phương tiện truyền tải giá trị lịch sử đặc sắc đó, thể hiện tinh thần độc lập dân tộc, bản sắc văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giá trị lịch sử của chùa Tây Phương còn được khẳng định là một trong những địa điểm đánh dấu sự chuyển biến về hệ tư tưởng Phật – Lão – Nho cuối thời Lê Sơ, sang nhà Mạc, rồi thời Lê Trung Hưng với thể hiện rõ nét nhất ở kết cấu kiến trúc hai tầng tám mái, ô cửa hình tròn biểu tượng cho âm dương ngũ hành, sắc sắc không không.

Bên cạnh đó, lễ hội chùa Tây Phương là một hoạt động văn hóa, tín ngưỡng với nghi lễ tế cáo trời đất, nghi thức cúng Phật truyền thống và những trò chơi dân gian… đã tạo nên những giá trị văn hóa độc đáo và đặc sắc. Vì vậy, chùa Tây Phương không chỉ là một bảo vật văn hóa của nhân dân địa phương, mà vượt khỏi không gian làng xã, trở thành địa chỉ văn hóa cho du khách thập phương trong và ngoài nước.

Với giá trị đặc biệt của di tích, di tích kiến trúc nghệ thuật Chùa Tây Phương (huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội) đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt (theo Quyết định số 2408/QĐ-TTg ngày 31/12/2014).

Di tích kiến trúc nghệ thuật Đền Sóc – Hà Nội

Đền Sóc phụng thờ người anh hùng văn hóa làng Gióng có công đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước từ buổi bình minh trong lịch sử dân tộc. Theo truyền thuyết, Vua Hùng đã cho lập đền thờ Thánh Gióng ngay sau khi dẹp xong giặc. Qua các nguồn tư liệu, đặc biệt là văn bia niên hiệu Dương Đức (1672) đã đoán định đền được dựng khoảng thời Lê trước năm 1672.

hà nội có gì?

Di tích kiến trúc nghệ thuật Đền Sóc – Hà Nội

Trải qua các thời kỳ lịch sử, đền Sóc luôn được chính quyền và nhân dân gìn giữ, tu bổ, tôn tạo. Hiện nay, Khu di tích Đền Sóc (Đền Quốc tế) thuộc xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, bao các hạng mục: Nghi môn, đền Hạ, đền Thượng, chùa Đại Bi, đền Mẫu, nhà khách, khu phụ, chùa Non.

Nghi môn: xây gạch kiểu tứ trụ, hai trụ lớn đỉnh trụ đắp nổi hình bốn chim phượng, đuôi chụm vào nhau, tạo thành hình trái giành cách điệu, bên dưới là các ô lồng đèn, đắp nổi đề tài “tứ linh”, “tứ quý”, thân trụ đắp nổi các câu đối chữ Hán.

Đền Hạ (đền Trình): toạ lạc trên một khu đất cao, dưới chân núi Vệ Linh, tương truyền đền được dựng để thờ thần linh thổ địa nơi Thánh Gióng dừng chân khi dẹp xong giặc Ân, trước khi bay về trời. Đền có kết cấu kiểu chữ “Nhị”, nằm ở bên trái lối đi vào di tich gồm Đại bái và Hậu cung.

Đại bái: hướng Nam, gồm 05 gian, kiểu tường hồi bít đốc tay ngai, mái lợp ngói ta, bờ nóc đắp kiểu bờ đinh, trang trí hàng hoa chanh, hai đốc mái đắp trụ diêm. Phía trước mở cửa bức bàn kiểu thượng song hạ bản. Trang trí trên kiến trúc tập trung ở các bức cốn nách, đầu bẩy, con rường với các hoạ tiết hình rồng lá, văn mây, hoa lá, kỹ thuật chạm nổi.

Hậu cung: xây trên nền cao hơn nền Đại bái 25cm, xung quanh nền bó vỉa gạch, gồm 03 gian chạy ngang, nối với nhà đại bái bằng một khoảng sân nhỏ lát gạch đất nung, mái lợp ngói ta, bờ nóc đắp kiểu bờ đinh, phía dưới trang trí hàng hoa chanh chạy suốt nóc mái.

Đền Thượng: nằm trên một khu đất cao tựa lưng vào núi Vệ Linh, phía trước có hồ nước, gồm: Nghi môn, Tiền tế, Trung cung và Hậu cung.

Tiền tế: 05 gian 02 chái, bộ khung gỗ gồm 6 thức vì kiểu chồng rường, giá chiêng hạ kẻ. Trang trí tập trung ở các bức cốn nách với nghệ thuật chạm nổi rồng chầu, vân mây, lá lật, văn dấu hỏi, chữ triện, phượng hàm thư, văn hình học, mang phong cách nghệ thuật cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Gian giữa đặt một hương án và các đồ thờ tự, hai gian bên đặt ngựa thờ và tượng quan Hoàng.

Trung cung: gồm 02 gian dọc, mái lợp ngói mũi hài, mặt bằng bốn hàng chân, các cột gỗ tạo tròn kiểu thượng thu – hạ thách, đặt trên các chân tảng đá xanh. Các bộ vì kiểu chồng rường giá chiêng, hai bộ vì hồi kiểu Vì cốn ván bưng kín. Trang trí tập trung ở các thanh rường chạm nổi hình lá lật, vân mây.

Hậu cung: 03 gian, 02 dĩ, xây tường bao, dạng bốn mái, lợp ngói ta, bờ nóc đắp kiểu bờ đinh. Các bộ vì kết cấu chồng rường giá chiêng hạ kẻ không trang trí. Nền nhà lát gạch Bát Tràng. Phía trên các gian đều treo những bức cửa võng trang trí rồng chầu mặt trời, chim trĩ, hoa dây.

Đền Mẫu: hướng Nam, kiến trúc chính kiểu chữ Nhị, gồm Tiền tế và Hậu cung. Tiền tế 03 gian, trên nền cao hơn mặt sân 45cm, tường hồi bít đốc tay ngai, mái lợp ngói ta, phía trước xây hai trụ biểu kiểu trụ lồng đền, đỉnh trụ đắp nổi hình trái giành, phần lồng đền có trang trí hoa văn. Các bộ vì kèo gỗ kiểu giá chiêng chồng rường trụ chống tiền kẻ hậu bẩy, nối liền với hậu cung. Tiền tế nối với Hậu cung bằng hệ thống máng lớn, đặt trên bẩy nối liền giữa các cột cái. Hậu cung 01 gian 02 dĩ, tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta, bốn bộ vì kèo gỗ kiểu giá chiêng trụ chống, các gian được nối với nhau bằng hệ thống xà đai.

hà nội có gì?

Chùa Đại Bi

Chùa Đại Bi: nằm trên một khu đất cao, dưới chân núi Vệ Linh, tương truyền chùa được xây dựng trên mảnh đất nơi Thánh Gióng đã dừng chân, trước khi bay về trời. Chùa có kết cấu kiểu chữ “Đinh” gồm: Tiền đường và Thượng điện.

Tiền đường: hướng Nam, trên nền cao hơn mặt sân 30cm, xung quanh bó vỉa gạch, gồm 05 gian, kiểu tường hồi bít đốc tay ngai, mái lợp ngói ta, bờ nóc đắp kiểu bờ đinh, trang trí hàng hoa chanh, hai đốc mái đắp trụ diêm. Trang trí trên kiến trúc tập trung vào các bức cốn nách, đầu bẩy, con rường với đề tài hình rồng, hoa lá, vân mây.

Thượng điện: 02 gian, chạy dọc về phía sau nối hồi với gian giữa tiền đường, mái lợp ngói ta, bờ nóc đắp kiểu bờ đinh dưới trang trí hàng hoa chanh chạy suốt nóc mái. Mặt bằng bốn hàng chân, cột gỗ tròn kiểu thượng thu – hạ thách. Các bộ vì đỡ mái kết cấu kiểu chồng rường – hạ kẻ.

Nhà bia: nằm trên núi nhỏ (núi Bia), xây bằng gạch, kiểu phương đình bốn mái. Một tấm bia đá xanh tám mặt cao 2,5m đặt ở chính giữa nhà bia, đồng thời có chức năng chống đỡ phần mái của nhà.

Chùa Non: toạ lạc hướng Nam trên sườn núi ở phía Tây Bắc khu đền Sóc, có quy mô kiến trúc khá bề thế, mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Đinh, gồm: Tam quan, Tiền đường, Thượng điện, nhà khách.

Tam quan: toạ lạc lưng chừng núi, kiểu trụ biểu, các trụ hình vuông đỉnh đắp nổi hình bốn chim phượng đầu quay bốn hướng, đuôi chụm vào nhau tạo thành trái giành cách điệu.

Tiền đường: 05 gian xây kiểu mái chồng diêm hai tầng tám mái, lợp ngói ta, bờ nóc, bờ dải trang trí hàng hoa chanh chạy suốt, các góc đao uốn cong, phần cổ diêm trang trí hình chấn song con tiện. Phía trước mở bẩy bộ cửa ra vào kiểu thượng song – hạ bản. Bộ khung đỡ mái gồm 6 bộ vì kết cấu kiểu: chồng rường giá chiêng hạ kẻ, các con rường kê trên các đấu vuông thót đáy, mỏng thấp. Sáu hàng chân cột gỗ tròn làm kiểu thượng thu – hạ thách đặt trên chân tảng đá xanh, thân cột gắn câu đối chữ Hán.

Thượng điện: 04 gian, xây chạy dọc về phía sau, kiểu tường hồi bít đốc nối với toà tiền đường tạo thành hình chữ đinh, bờ nóc trang trí hoa chanh chạy suốt, mặt bằng bốn hàng chân. Các bộ vì đỡ mái kiểu giá chiêng chồng rường.

hà nội có gì?

Di tích kiến trúc nghệ thuật Đền Sóc – Hà Nội

Đền Sóc hiện còn lưu giữ được 145 hiện vật có giá trị, niên đại trải dài từ thời Lê, tập trung vào triều Nguyễn, tiêu biểu như: hoành phi, câu đối, bia đá, lư hương, tượng thờ, hương án, ngai thờ, bát bửu, chân đèn, ngựa gỗ, chuông đồng… Đặc biệt là tấm bia bát giác thời Lê dựng trên núi, phía sau đền Thượng, là tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao, cung cấp nhiều thông tin về Thánh Gióng và phong tục tập quán, địa phương qua các thời kỳ.

Hội đền Sóc là sự tồn tại của nhiều lớp văn hoá – tín ngưỡng được gìn giữ và lưu truyền đến ngày nay. Đó là tín ngưỡng thờ các hiện tượng tự nhiên – dấu chân ông Đổng – vị thần sấm sét, mưa dông, tín ngưỡng thờ thần mặt trời, tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng thờ cây đá – một tín ngưỡng cổ xưa của người Việt… Hội đền Sóc được tổ chức từ ngày mùng 6 – 7 tháng Giêng (kỷ niệm ngày hoá của Thánh Gióng) ẩn chứa nhiều giá trị văn hóa đa diện, độc đáo, tiêu biểu của dân tộc. Năm 2010, UNESCO đã vinh danh Hội Gióng là Di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại.

Với giá trị đặc biệt của di tích, di tích kiến trúc nghệ thuật Đền Sóc (huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt (tại Quyết định số 2408/QĐ-TTg ngày 31/12/2014).

Chùa Thầy và khu vực núi đá Sài Sơn, Hoàng Xá Phượng Cách – Hà Nội

hà nội có gì?

Chùa Thầy và khu vực núi đá Sài Sơn, Hoàng Xá Phượng Cách – Hà Nội

Trong lịch sử hình thành, chùa Thầy gắn liền với tên tuổi và cuộc đời của Thiền sư Từ Đạo Hạnh (1072 – 1117) – vị tổ sư thứ 24 của dòng thiền Tì Ni Đa Lưu Chi, với nhiều tên gọi, như “Hương Hải Am”, “Bồ Đề Viện”, “Phật Tích”… Chùa Thầy và khu vực núi đá Sài Sơn, Hoàng Xá, Phượng Cách, thuộc các xã Sài Sơn, xã Phượng Cách và thị trấn Quốc Oai, huyện Quốc Oai, Hà Nội. Đây là một quần thể di tích kết hợp với cảnh quan của những ngọn núi thấp ở giữa vùng đồng bằng trù phú, tạo nên một diện mạo linh thiêng mà kỳ vĩ, gồm 03 cụm điểm: Khu vực núi đá Sài Sơn, Hoàng Xá, Phượng Cách; Quần thể di tích chùa Thầy; các di tích trên núi động Hoàng Xá.

Khu núi đá Sài Sơn, Hoàng Xá, Phượng Cách

hà nội có gì?

Khu vực núi đá Sài Sơn

Theo thuyết phong thuỷ, núi Sài được xem như là con rồng lẻ đàn (quái long), xung quanh có 18 ngọn núi nhỏ – “Thập bát tú sơn” chầu về, án ngữ cho tổ sơn Tản Viên. Tuy nhiên, hiện nay chỉ còn lại 11 ngọn núi, là: Sài Sơn, Long Đẩu, Hoa Sơn, Hương Sơn (Hổ Sơn), Phượng Hoàng, Kỳ Lân, Sơn Tượng, Âm Giang, Ông Minh, Đồng Hè và Hoàng Xá. Trong số đó, nổi tiếng nhất là núi Sài Sơn (núi Thầy), hình vòng cung cao khoảng 100m từ Sài Sơn kéo xuống tận Hoàng Xá với bán kính trên 3km. Trên núi có nhiều loại cây cổ thụ trăm năm tuổi, nhiều loại thuốc quý được thiên nhiên ban tặng. Núi Sài với nhiều hang động nổi tiếng như hang Cắc Cớ, hang Thánh Hoá, hang Gió, trên đỉnh lại có Bàn cờ tiên, Chợ Trời. Đặc biệt, Hang Cắc Cớ ở lưng chừng núi, rất sâu, cửa hang nhỏ hẹp, tối và trơn, muốn vào hang phải có đèn đuốc. Trong hang có vòm rộng, hiện còn lưu giữ một bể xương người – tương truyền là nơi tuẫn tiết của nghĩa quân Lữ Gia thời Triệu chống lại nhà Tây Hán thất bại.

Quần thể di tích chùa Thầy

Đây là tổ hợp công trình kiến trúc nằm ở chân, sườn núi Sài Sơn và một số ngọn núi nhỏ xung quanh, gồm: chùa Thầy (chùa Cả, Thiên Phúc Tự), chùa Bối Am, chùa Cao, đền Thượng, chùa Long Đẩu, chùa Sài Khê, đền Quán Thánh.

hà nội có gì?

Quần thể di tích chùa Thầy

Chùa Thầy: bố cục mặt bằng tổng thể với nhiều đơn nguyên kiến trúc hợp lại thành kiểu “nội tiền công, hậu nhất, ngoại quốc”, gồm các hạng mục:

Thủy đình: nằm ở giữa hồ Long Trì, 1 gian 2 dĩ, kiểu phương đình, chồng diêm hai tầng, 8 mái với các góc đao cong. Thuỷ đình xây dựng khoảng thời Hậu Lê (1533 – 1788), chia thành 2 cấp: giữa ngập nước, hai bên cao trên mặt nước, là nơi để đồ diễn rối nước.

Cầu Nhật Tiên, Nguyệt Tiên: kiến trúc kiểu “thượng gia hạ kiều”. Cầu Nhật Tiên nằm bên trái chùa đi ra đảo nơi có đền thờ Tam phủ. Cầu Nguyệt Tiên ở bên phải chùa nối với bờ hồ lên núi. Tương truyền hai cây cầu này do Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan (1528 – 1613) xây dựng vào khoảng những năm đầu thế kỷ XVII.

Đền Tam Phủ: nằm trên một gò đất nổi giữa hồ, dài 7m, rộng 5m, gồm 3 gian 2 dĩ nhỏ. Đền được xây bằng đá ong đỏ sẫm, 4 lá mái, lợp ngói mũi hài, kết cấu tàu đao lá mái, kết cấu bộ khung vì theo kiểu chồng rường bảy hiên. Theo các nhà nghiên cứu, đền mới xuất hiện vào đầu thời Nguyễn.

Tiền đường (chùa Hạ): dài 20m, rộng 5m, cao 5,2m gồm 3 gian 2 chái, dựng trên nền cao khoảng 1m so với sân chùa. Kết cấu bộ vì có 4 hàng chân cột, bộ vì nóc giá chiêng – kẻ suốt, mái lợp ngói mũi hài, bốn đầu đao cong vươn lên. Trang trí trên bộ mái có makara, lân, rồng. Hai đầu hồi làm kiểu vỉ ruồi, trổ thủng hình mặt trời, hoa cúc, vấn xoắn tròn xen lẫn với mây cụm hình đao mác. Hệ thống cửa kiểu bức bàn. Ở ván nong, ván lá gió trang trí tia lửa, lá đề …

Nhà cầu (ống muống): có chức năng nối tiền đường với thượng điện, gồm 1 gian, có 2 mái chạy dọc, dài 4,1m, rộng 4,5m, kết cấu 2 bộ vì 4 hàng chân cột và 4 kẻ góc đỡ đầu mái. Bộ vì kèo kiểu kẻ chuyền giá chiêng với những trụ ngắn. Ở 2 hàng lan can, vách ngăn gỗ trang trí chấn song con tiện, bên dưới chia 4 tầng, có nhiều họa tiết trang trí điển hình cho nghệ thuật điêu khắc gỗ thế kỷ XVII.

Thượng điện (chùa Trung): gồm 3 gian 2 chái, dài 20m, rộng 9,5m và cao 5,5m, nền cao hơn nền tiền đường 0,5m. Thượng điện có khám thờ bên trong. Kết cấu bộ vì kiểu chồng rường – giá chiêng và giá chiêng kẻ suốt. Mái lợp ngói mũi hài, với kết cấu tàu đao – lá mái với các góc đầu đao uốn cong. Thượng điện có kết cấu khá thông thoáng nhờ vào hệ thống cửa bức bàn gỗ bao hai bên hồi và phía sau.

Điện Thánh (chùa Thượng): cao hơn điện Phật 0,95m, gồm 1 gian 2 chái lớn, dài 14,7m, rộng 11,7m và cao 6m. Bộ khung gồm 4 cột cái, 16 cột quân. Trong 4 cột cái có 1 cột gỗ ngọc am và một cột gỗ chò vẩy có chu vi 1,8m. Vì nóc kiểu chồng rường con nhị – giá chiêng”. Trang trí hoa văn bên trong điện Thánh rất ít. Bên ngoài, ở cả 3 mặt ván gỗ bưng được chạm trổ khá cầu kỳ các đề tài rồng, lân, phượng, hoa lá, vân mây và những đường cánh sen chạm lộng nhiều lớp. Phía sau, từ cửa hậu xuống là hệ thống bậc đá (có đôi sấu đá đầu nghê, mình sóc mang đậm phong cách điêu khắc thời Trần).

Hành lang – gác chuông, gác trống, hậu đường: 2 dãy hành lang nằm dọc hai bên sườn chùa, mỗi dãy 13 gian nhỏ, với 9 tượng La Hán. 3 gian cuối của mỗi dãy được đẩy lên cao thành gác Chuông, gác Trống – kết cấu này là một đặc điểm độc đáo của chùa Thầy. Nhà hậu đường ở phía sau điện Thánh có 11 gian 2 dĩ nhỏ.

Chùa Cao (Đỉnh Sơn tự): nối với chùa Cả qua cầu Nguyệt Tiên, tọa ở lưng chừng núi, còn gọi là Am Hiển Thuỵ với hang Thánh hoá là nơi Từ Đạo Hạnh giải thi (trút xác) để đầu thai làm con của Sùng Hiền Hầu, sau trở thành vua Lý Thân Tông. Chùa Cao có quy mô kiến trúc nhỏ với các công trình kiến trúc: gác chuông, chùa chính (tiền đường, thượng điện) và các công trình phụ trợ.

Chùa Một Mái (Bối Am tự): nằm dưới chân núi, có cửa sau để đi lên núi gồm Tiền đường và Thượng điện, gác Chuông và Nhà lưu niệm Bác Hồ (nguyên là nhà tổ chùa Bối Am). Tại đây, Bác Hồ đã ở và làm việc từ ngày 3 tháng 2 đến 2 tháng 3 năm 1947.

Đền Thượng (đền Văn Xương): nằm ở bên phía kia sườn núi, bên trên chùa Bối Am, được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII – XVIII thờ Văn Xương Đế Quân, Tản Viên Sơn Thánh, Từ Đạo Hạnh. Đền có 3 gian 2 chái, với bốn lá mái các góc đao cong, bộ khung vì gỗ bốn hàng chân, hệ cửa bức bàn. Xưa kia, các sĩ tử thời phong kiến thường đến đây ăn ngủ (ăn chay, cầu đảo) với mong muốn xin đỗ đạt và đây cũng từng là nơi hội họp của phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục.

Chùa Long Đẩu: nằm dưới chân Long Đẩu Sơn – núi hình rồng (tiền án của chùa Thầy) ngay bên hồ Long Trì. Chùa được khởi dựng vào cuối thế kỷ XI và được trùng tu lớn vào thời Trần, niên hiệu Hưng Long thứ 2 (1294). Năm Chính Hoà thứ 21(1708), chúa Trịnh Cương cùng Cung Tần Ngọc Lãnh đã bỏ tiền vàng cúng tam bảo, xây thêm nhà Tổ, hành lang, hậu điện, tam quan.

Chùa Sài Khê (Hoa Phát tự): tọa lạc dưới chân núi Hoa Sơn, cũng là ngôi chùa được khởi dựng khá sớm, đã qua nhiều lần trùng tu tôn tạo, đến thế kỷ XVII đã có quy mô và hệ thống tượng khá phong phú đầy đủ… Hiện nay, Chùa có các hạng mục: tam quan, gác chuông, chùa chính, nhà Tổ/Mẫu. Chùa Sài Khê có 51 pho tượng tròn cùng toà Cửu Long, có nhiều pho đẹp như Đại Thế Chí Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát,…

Đền Quán Thánh: nằm dưới chân ngọn Hổ Sơn, cách chùa Thầy khoảng 1km về hướng Đông Nam. Tương truyền, đây là nơi chôn cất tro cốt của Từ Đạo Hạnh, còn tinh cốt (xá lợi) được yểm vào tượng rồi đặt trong khám thờ. Quán được dựng từ thế kỷ XII, đến thế kỷ XV được xây dựng với quy mô như hiện nay. Năm Khải Định thứ 10 (1925) quán được tu sửa lớn, năm 1996 đại tu. Kiến trúc Đền hình chữ “Nhất”, vì nóc kiểu chồng rường, tường xây đá ong cổ, mái lợp ngói mũi. Trang trí trên kiến trúc có các đề tài tứ linh, rồng mây và hoa lá vân xoắn cách điệu phong cách Lê Trung Hưng.

Các di tích trong núi động Hoàng Xá

hà nội có gì?

Các di tích trong núi động Hoàng Xá

Núi động Hoàng Xá (xã Hoàng Ngô nay là thị trấn Quốc Oai) nhìn xa giống như một chú voi khổng lồ, nên còn được gọi là núi Tượng Linh. Bên trong núi có một hang động lớn là Hoàng Xá. Trên vách động đặt ượng Cao Xuân Dục (1842 – 1923). Ông từng làm Tri phủ Quốc Oai, được dân tin yêu nên sau khi ông mất, dân tạc tượng thờ ông giữa động. Các di tích ở núi động Hoàng Xá bao gồm: chùa Hoa Vân, đền Văn Xương, quán Hoàng Xá, chùa Hoàng Kim.

Chùa Hoa Vân: từ động Hoàng Xá, đi khoảng 200m, rẽ phải tới chùa Hoa Vân, gồm: tiền đường, thượng điện, nhà khách, nhà Tổ, nhà Mẫu. Tiền đường 5 gian 2 dĩ, tường hồi bít đốc tay ngai, hai tầng mái lợp ngói ri, phần trước thắt cổ diêm. Ở hai đầu và giữa bờ nóc mái đặt 3 cây tháp cửu phẩm liên hoa, gợi cho du khách nhận biết ngôi chùa này thờ Phật theo tông Tịnh Độ. Các bộ vì bên trong kết cấu theo lối thượng giá chiêng con nhị, hạ kẻ bẩy trên 4 hàng chân cột. Thượng điện là ngôi nhà 3 gian, nối từ giữa tiền đường về phía sau. Các bộ vì kết cấu tương tự như tiền đường.

Đền Văn Xương: tọa lạc trên đỉnh núi Hoàng Xá, kết cấu kiểu chữ “Đinh” gồm tiền tế, hậu cung. Tiền tế có 3 gian 2 dĩ, kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ri, cửa bức bàn, chắn song con tiện. Các bộ vì kiểu thượng chồng rường hạ kẻ bẩy trên 4 hàng chân cột, mang đậm dấu ấn thời Nguyễn. Hai gian bên bài trí các ban thờ và tượng. Hậu cung là một gian nhà dọc nối từ gian giữa vào phía trong, bài trí sập thờ, tượng thánh Văn Xương.

Quán Hoàng Xá: kết cấu chữ “Đinh” với nghi môn, tiền tế, hậu cung nằm ngay trên trục đường đi, lưng tựa vào núi Hoàng Xá. Tiền tế có 3 gian 2 chái, kiểu tường hồi trụ biểu, bốn bộ vì đỡ mái kiểu thượng chồng rường con nhị, hạ kẻ bẩy hiên. Phía trước hiên đặt đôi rồng đá chầu ra cổng. Hậu cung 3 gian, bộ vì ngoài kiểu giá chiêng kẻ ngồi. Bộ vì giữa kiểu ván mê, trang trí lưỡng long chầu nguyệt, trong cùng có 4 chữ Hán “Cổ tích linh từ”. Gian trong đặt khám lửng, thờ Thành hoàng làng. Tại đây, có pho tượng Lữ Gia thời Mạc, tạc giống như người thật.

Chùa Hoàng Kim: kết cấu chữ “Đinh” gồm tiền đường và thượng điện. Tiền đường 3 gian 2 chái. Các bộ vì kiểu giá chiêng kẻ bẩy trên 3 hàng chân cột, cột cái là cốn mê chạm nổi hình tượng rồng và tứ linh. Thượng điện (Tam bảo) – nơi bài trí chủ yếu tượng thờ Phật, có 3 gian, bộ vì kết cấu giá chiêng kẻ ngồi trên 2 hàng chân cột. Chùa Hoàng Kim hiện lưu giữ nhiều tượng có giá trị, như pho A Di Đà và Nhị vị Bồ tát mang phong cách nghệ thuật tượng thời Lê. Đặc biệt, một pho tượng đá độc đáo gồm phần tượng và bệ tượng mang phong cách nghệ thuật thời Lý. Trong khuôn viên chùa còn có nhà Mẫu, miếu Võ Thịnh thờ Quan Công và Đức Thánh Trần.

Quần thể di tích chùa Thầy

Quần thể di tích chùa Thầy còn lưu giữ được hệ thống các di vật, cổ vật rất phong phú đa dạng, thuộc nhiều chủng loại, chất liệu, như: đá, gỗ, giấy, hệ thống tượng thờ, nhang án, hoành phi câu đối,… tiêu biểu như bộ tượng Di đà tam tôn (đã được công nhận là Bảo vật quốc gia), tượng thánh Từ ở ba kiếp, tượng Lữ Gia, Tam thế Phật, Bệ đá hoa sen Phật có sư tử đội thời Lý, bệ hoa sen hai tầng (Bách hoa đài) thời Trần, khám thờ thời Mạc …

Ngoài những giá trị vật thể hiện hữu, chùa Thầy còn bảo lưu được các giá trị văn hóa phi vật thể tiêu biểu, đặc sắc và độc đáo biểu hiện qua tín ngưỡng dân gian, tôn giáo, lễ hội truyền thống (Hội Thầy), diễn ra từ ngày mùng 5 – 8 tháng Ba Âm lịch hàng năm (chính hội ngày mùng 7). Đây là lễ hội lâu đời, nức tiếng của xứ Đoài và kinh thành Thăng Long xưa thể hiện qua câu: “Nhất vui là hội chùa Thầy…”, “Nhớ ngày mồng bẩy tháng Ba/Trở vào hội Láng trở ra hội Thầy”… Đến Hội, mọi người sẽ được tham gia, thưởng thức các trò chơi dân gian hấp dẫn (đánh cờ, đấu vật, kéo co, chọi gà…), đặc biệt, có múa rối nước tại Thủy đình.

Chùa Thầy mang những giá trị lịch sử, văn hóa, kiến trúc nghệ thuật độc đáo, thể hiện qua không gian cảnh quan, kiến trúc, nghệ thuật chạm khắc và hệ thống tượng pháp,… là nơi lưu dấu tích của thiền sư Từ Đạo Hạnh và những câu chuyện mang sắc màu của tín ngưỡng dân gian, Đạo giáo, Phật giáo, thể hiện sự dung hội tôn giáo, tín ngưỡng dân gian qua các thời kỳ lịch sử, là một trong những nơi thờ “tiền Phật, hậu Thánh” sớm nhất nước ta. Chùa Thầy cũng ghi dấu mốc son của lịch sử trong cuộc kháng chiến chống Pháp, từng là cơ sở hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Phan Trọng Tuệ, Xuân Thủy, Lê Quang Đạo, Xứ ủy Bắc Kỳ và Cơ quan Báo Cứu quốc. Khu vực này còn chứa đựng những giá trị về văn hóa khảo cổ đã được phát hiện và khai quật.

Với giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Chùa Thầy và khu vực núi đá Sài Sơn, Hoàng Xá, Phượng Cách (huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội) đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt theo Quyết định số 2408/QĐ-TTg ngày 31/12/2014.

Di tích kiến trúc nghệ thuật đình Tây Đằng – Hà Nội

Đình Tây Đằng thuộc thôn Đông, thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt theo Quyết định số 2383/QĐ-TTg ngày 09/12/2103. Đây là một trong những di tích kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu, độc đáo vào loại bậc nhất ở xứ Đoài. Đình thờ ba vị Thành hoàng: Tản Viên, Cao Sơn và Quí Minh, những vị anh hùng văn hoá, biểu trưng cho sức mạnh của dân tộc trong việc chế ngự thiên tai, lũ lụt và chống giặc ngoại xâm…

hà nội có gì?

Di tích kiến trúc nghệ thuật đình Tây Đằng – Hà Nội

Căn cứ vào dấu vết kiến trúc và nghệ thuật trang trí hiện còn, có thể khẳng định, đình Tây Đằng có niên đại khởi dựng vào thời Mạc, thế kỷ XVI. Và, kết quả kiểm tra bằng phương pháp C14 cũng đã ủng hộ nhận định này. Đến nay, đình đã trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, và lần gần đây nhất là vào năm 2002 – 2004.

Kiến trúc của đình gồm: cổng đình, hồ bán nguyệt, nghi môn, tả – hữu mạc, đại đình, giếng đình và một số hạng mục phụ trợ khác.

Cổng đình: được xây khá đơn giản, với hai trụ liền tường bao. Trụ có tiết diện hình vuông, với đầu cột bổ trụ ô lồng đèn, không có hoa văn trang trí. Hạng mục này không mang nhiều giá trị nghệ thuật, chủ yếu gắn với chức năng cửa ra, vào và bảo vệ khuôn viên, kiến trúc của đình.

Hồ bán nguyệt: ở vị trí phía trước sân đình, trong hồ thả sen. Ven hồ có hai đường dẫn vào nghi môn và sân đình.

Nghi môn: được xây theo dạng tứ trụ. Hai trụ lớn nằm ở hai bên của trục thần đạo. Đỉnh trụ đắp tứ phượng, đầu quay về bốn hướng, đuôi chụm lại tạo thành hình trái giành. Phía dưới phượng là phần mui luyện, với bốn mặt đắp trang trí hình hổ phù uy nghi. Tiếp đến là các ô lồng đèn, có trang trí đề tài tứ linh. Thân trụ soi gờ kẻ chỉ, bên trong đắp nổi các câu đối chữ Hán. Đế trụ thắt dạng cổ bồng. Hai trụ nhỏ ở hai bên, có kết cấu tương tự trụ biểu lớn, với đỉnh trụ đắp hình nghê chầu, tiếp theo là ô lồng đèn được xây vuông trổ thủng, thân trụ đắp nổi các câu đối chữ Hán.

Phía sau nghi môn là khoảng sân rộng. Phần trên trục thần đạo được tôn cao hơn xung quanh một cấp nền, tạo thành kiểu sân rồng để phục vụ việc tế lễ trong hội. Sân được lát gạch Bát Tràng, có kích thước (30 x 30)cm.

Tả – hữu mạc: nằm ở hai bên phía trước đại đình, được khởi dựng vào năm Canh Thân (1860). Mỗi toà đều có 3 gian, 2 chái, kết cầu chồng diêm, mái lợp ngói mũi hài, góc mái dạng đao cong, có trang trí hình rồng.

Đại đình: có bố cục mặt bằng dạng chữ Nhất, quay hướng Nam (hơi ngả sang Tây, gồm 3 gian, 2 chái lớn. Nền đình được bó vỉa bằng đá tảng, lát gạch Bát Tràng, cao hơn sân 60cm – khoảng tương ứng với bậc tam cấp. Đình có bộ mái thấp, lớn, lợp ngói mũi hài nhiều lớp, với 4 mái xòe rộng, trùm ra ngoài vỉa nền và hai chái. Phần mái có tỉ lệ bằng 2/3 chiều cao của ngôi đình. Các đường bờ nóc, bờ dải được trang trí hoa chanh. Hai đầu bờ nóc là hai con lân cõng trên lưng một vân xoắn lớn.

Hệ khung đỡ mái của đình tì lực lên 6 hàng cột gỗ, với tổng số 48 cột lớn, nhỏ. Chu vi cột cái 750cm, cột quân 500cm, cột hiên 280cm. Các cột đềuđược làm kiểu thượng thu hạ thách, đứng trên chân tảng bằng đá xanh theo kiểu thức âm – dương, trên tròn dưới vuông. Kết cấu khung chịu lực bằng gỗ, được hình thành qua liên kết các bộ vì. Tương ứng với các gian là 4 bộ vì chính đỡ mái, được thiết kế thống nhất theo kiểu “giá chiêng”. Hầu hết các cấu kiện đều được làm bằng gỗ mít. Trên các cấu kiện gỗ của tòa đại đình đều có các đề tài trang trí rồng, lân, nghê, hoa lá, vân xoắn…

Di tích kiến trúc nghệ thuật đình Tây Đằng – Hà Nội

Điểm đặc biệt trong kiến trúc đình Tây Đằng và các ngôi đình cùng niên đại thời Mạc (thế kỷ XVI), như Đình Thanh Lũng (Ba Vì), là còn có thêm bộ phận cánh gà đỡ dưới dạ các xà dọc (tai cột). Cấu kiện này bao gồm hai thân gỗ, có đặc điểm dài ở trên, ngắn ở dưới. Một số cánh gà còn có hai đấu vuông thót đáy kê ở giữa, với thân ván dày, bên dưới còn được chạm khắc tỉ mỉ các đề tài rồng, cá chép hóa rồng. Đình Tây Đằng hiện còn bảo tồn được tương đối nguyên vẹn hệ thống cánh gà có niên đại sớm nhất và hiếm thấy trong di tích cổ truyền ở nước ta.

Trước đây, bộ khung gỗ của đại đình còn có liên kết ở phía dưới, đó chính là hệ thống dầm sàn. Dầm dọc nối các cột trong cùng một bộ vì, dầm ngang nối các cột (cùng hàng) của các bộ vì với nhau. Ván sàn được lát trên các dầm này. Ngoài gian giữa, tất các các gian đều có sàn. Tuy nhiên, hiện nay sàn của đình Tây Đằng không còn nữa. Tại gian giữa tòa đại đình, phía trước bài trí sập thờ, hương án, án gian và các đồ thờ tự. Gian chái bên phải đình đặt ban thờ quan Bộ Hộ, các gian bên được để trống, tạo không gian rộng rãi cho sinh hoạt văn hóa cộng đồng làng xã.

Hậu cung: là nơi thờ Thành hoàng, lưu giữ các vật thiêng và đồ thờ cúng. Cung này được làm tại vị trí trung tâm ngay nửa sau, khoảng giữa hai cột cái và cột quân của gian giữa đại đình, với hệ thống ván sàn bằng gỗ, cao 1,9m so với mặt nền. Cửa hậu cung được làm theo kiểu bức bàn, với 6 cánh, có trang trí tứ linh. Phía trước cửa hậu cung là khám gian bưng kín, mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII. Phía trên khám này được trang trí hai lớp, với bên trong chạm nổi đề tài rồng chầu hoa cúc, bên ngoài chạm hình rồng phun lửa, mắt lồi, trong tư thế nhìn xuống, có đao mác lớn, mũi to, thân tạo vẩy dầy, phía bên trái phần đuôi rồng còn có hình người ngồi, như thể hiện khát vọng cầu nguồn nước. Toàn bộ phần phía trước hậu cung được sơn son thếp vàng. Hai mặt bên hậu cung được bưng kín bằng các đố lụa, có trang trí đề tài phượng chầu chữ thọ. Bên trong cửa hậu cung là nơi trang trọng, thâm nghiêm được đặt 3 ngai thờ Thành hoàng. Toàn bộ không gian bên dưới gác lửng hậu cung được để trống, không bài trí di vật.

Các mảng chạm khắc trang trí trên kết cấu gỗ của đình Tây Đằng, như tại đầu dư, cốn, xà nách, bẩy, đấu, ván nong, ván lá đề, con rường, vì nóc… được tạo tác qua kỹ thuật chạm lộng, chạm bong kênh, chạm nổi, chạm thủng đã đạt đến đỉnh cao, tạo nên những tuyệt tác điêu khắc. Đề tài trang trí cũng rất phong phú, đa dạng về loại hình, gồm linh vật, hình tượng thiên thần, hình tượng con người, biểu tượng tự nhiên, cỏ cây, hoa lá, rồng, lân, hươu, phượng,voi, ngựa, lân hí cầu, voi đi cày, voi phi (voi lồng), hình tượng hươu trong thế chạy phun lửa, thế nằm nghỉ trên một vân xoắn…

Đình Tây Đằng không chỉ là trung tâm sinh hoạt văn hóa của nhân dân địa phương, nơi hội tụ cộng đồng làng xã, mà còn là một “bảo tàng văn hoá, nghệ thuật dân gian” sống động, là nguồn tư liệu sáng giá để chúng ta nghiên cứu, tìm hiểu về lịch sử, văn hoá của cộng đồng và dân tộc.

Ô Quan Chưởng – Hà Nội

Đông Hà là một phường giáp với sông Hồng, được che chắn bằng con đê ngăn nước lũ. Theo Doãn Kế Thiện viết trong cuốn Cổ tích và thắng cảnh Hà Nội thì Đông Hà Môn được xây dựng vào thời kỳ đắp lại con đê cũ thành tòa thành đất bao quanh kinh thành Thăng Long; và là một trong 5 cửa ô xây dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749), gồm: Cửa ô Phúc Lâm, cửa ô Nhân Hòa, cửa ô Cầu Dền, cửa ô Cầu Dừa và cửa ô Đông Hà. Đến năm Cảnh Hưng thứ 46 (1785), ô Quan Chưởng được tu bổ lớn. Công trình kiến trúc ngày nay là kết quả của lần xây dựng vào năm Gia Long thứ 3 (1804). Tới năm 1817, tiếp tục mở rộng đường xá và sửa chữa ô Đông Hà, nên đình Thanh Hà ở cạnh cửa Đông Hà phải di dời vào phía trong, nơi bây giờ là số 10 Ngõ Gạch. Thời gian, mưa nắng và biến động binh hỏa, các cửa ô đều bị tiêu tàn, chỉ còn lại duy nhất Đông Hà Môn. Hiện nay trong đình Thanh Hà còn một tấm bia đá do Bùi Tú Lĩnh soạn năm 1855 nói rõ về sự kiện này.

hà nội có gì?

Ô Quan Chưởng – Hà Nội

Đông Hà Môn là kiến trúc dựng cổng theo kiểu vọng lâu, gồm hai tầng. Tầng dưới có 3 cửa vòm, cửa chính ở giữa cao tới 3m, rộng gần 3m, hai cửa phụ hai bên, mỗi cửa rộng 1,65m, cao 2,5m. Tầng trên có vọng lâu 4 mái, thu nhỏ vào vị trí giữa cửa, nên có đường đi chạy xung quanh, mé ngoài có lan can trang trí các hình lục lăng, tứ giác hay hoa thị.

Lối dẫn lên vọng lâu xây bậc thang ở hai bên phía ngoài cổng phụ. Toàn bộ cửa Đông Hà có chiều rộng 20m, chiều dài 7m, xây bằng đá và gạch vồ loại lớn tương tự như gạch xây tường ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Mặt trước, phía trên cửa chính, chỗ dưới vọng lâu, trong một khung hình chữ nhật có đắp nổi ba chữ Hán bằng những mảnh sứ xanh “Đông Hà Môn”. Mặt sau, hướng ra phố Hàng Chiếu, có tấm biển đá cỡ 0,81m, được gắn lên tường. Đó là tấm bia “Lệnh cấm trừ tệ”, lập ngày 12/4/1881, ghi lệnh sức của Tổng đốc Hoàng Diệu và Tuần phủ Hoàng Văn Xứng cấm lý dịch các thôn, phường gây khó dễ, sách nhiễu dân chúng khi họ có việc nhà hoặc đi buôn bán, làm ăn trên sông, ở chợ… Nếu sự việc được phát giác sẽ bị trừng trị nghiêm khắc.

Đông Hà Môn là một cửa quan trọng của vòng ngoài kinh thành Thăng Long thời kỳ 36 phố phường, lại là cửa mở ra bến sông Hồng, chắc chắn có một vị trí quan trọng trong giao lưu buôn bán. Có lẽ tấm bia “Lệnh cấm trừ tệ” là hiện vật duy nhất thuộc nội dung này còn lưu giữ được, nó có giá trị đặc biệt cho việc nghiên cứu lịch sử Hà Nội.

Có thể nói, Đông Hà Môn là tên gọi chính xác nhất của di tích cửa ô, nhưng nhân dân vẫn thường gọi là Ô Quan Chưởng, do có những chuyện truyền tụng từ lâu. Chuyện thứ nhất vào cuối đời Lê, có ông quan Chưởng ấn về hưu, lập dinh cơ ở cạnh cửa ô này, vậy nên người ta tiện miệng gọi là Ô Quan Chưởng. Chuyện thứ hai, vào thời Nguyễn có một viên quan Chưởng cơ chỉ huy kiểm soát ở cửa ô, mọi thuyền bè ghé đến đều phải qua trình báo quan Chưởng ấy, và người ta quen miệng gọi là Ô Quan Chưởng. Chuyện thứ ba, nhiều người biết đến nhất là vào năm 1873, giặc Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ nhất, có viên quan Chưởng vệ cùng toàn thể binh lính dưới quyền chỉ huy của ông đã chiến đấu kiên cường và hy sinh anh dũng tại cửa ô này. Nhân dân gọi tên Ô Quan Chưởng để tưởng nhớ người chiến đấu, hy sinh cho Hà Nội… Cái tên Ô Quan Chưởng, dù bởi lý do gì, cũng đã đi vào tiềm thức nhân dân Hà Nội, nhân dân cả nước, và sự ghi nhận chính thức của lịch sử là đoạn phố nối từ cổng Ô tới phố Trần Nhật Duật đã mang tên là phố Ô Quan Chưởng.

Trải qua bao năm tháng với những biến động lịch sử của Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội, nói mỗi thước đất Hà Nội đều in lớp lớp dấu ấn ngàn xưa, cũng không ngoa. Chỉ riêng các cửa ô xưa của Thăng Long có lúc đã có tới 21 cửa từ thành Đại La ra các vùng dân cư phụ cận và dẫn tới các vùng đất nước xa xôi. Đông Hà Môn – Ô Quan Chưởng, di tích khá nguyên vẹn, như một chứng tích sống động của Thăng Long 36 phố phường. Di tích lịch sử này, hàng ngày hòa với cuộc sống thực tại đông vui tấp nập, và còn tiếp tục đồng hành cùng sự phát triển của Thủ đô.

Thăng Long tứ trấn – Hà Nội

Thăng Long tứ trấn là tên gọi để chỉ bốn ngôi chùa nằm ở bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc có nhiệm vụ trấn giữa bốn phương của Thăng Long trước kia, và bốn ngôi chùa này được coi là linh khí của Thăng Long xưa và của Hà Nội ngày nay, đó là: Đền Bạch Mã trấn ở phía Đông; Đền Voi Phục trấn ở phía Tây; Đền Kim Liên trấn ở phía Nam và Đền Quán Thánh trấn ở phía Bắc. Mỗi ngôi đền thờ một vị thần mang ý nghĩa và có nguồn gốc khác nhau.

hà nội có gì?

Đền Bạch Mã – Hà Nội

Đền Bạch Mã trấn phía Đông: hiện nay nằm ở số nhà 76 phố Hàng Buồm, thuộc quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Ngôi đền thờ thần Long Đỗ hay còn gọi là Bạch Mã, đây là vị thần bảo hộ kinh thành Thăng Long. Dân chúng Thăng Long xưa rất tôn sùng ngài, bởi ngài là vị thần rất thiêng. Truyền thuyết xưa có kể lại rằng: Khi Lý Công Uẩn rời đô từ Thanh Hóa ra định đô tại Thăng Long đã cho xây thành, nhưng thành cứ xây là bị sụt lở. Thấy vậy nhà Vua bèn tới đây làm lễ và thật lạ, vào buổi sáng chợt thấy có một con ngựa trắng từ trong đền đi ra, chạy vòng quanh khu vực đang xây thành, đánh dấu, chạy đến đâu để dấu chân đánh dấu mốc thành rồi trở lại Đền và vụt biến mất. Vua ra lệnh cho thuộc hạ cứ theo vết chân ngựa mà xây thành, xây nên khong bị lở nữa. Sau khi thành xây xong, Vua Lý chiếu cho chúng dân kinh thành phong thần Bạch Mã làm thành Hoàng bảo vệ cho Thăng Long. Từ đó, hình ảnh Ngựa trắng là một biểu tượng thiêng liêng của Đền.

hà nội có gì?

Đền Voi Phục – Hà Nội

Đền Voi Phục trấn phía Tây: Đền còn được gọi là Thủ Lệ hay Linh Lang, tên Thủ Lệ là do gần công viên Thủ Lệ, còn Linh Lang là do Đền thờ vị thần Linh Lang Đại Vương. Đền nằm trên địa bàn phường Cầu Giấy, Ba Đình, Hà Nội. Truyền thuyết kể lại rằng thần vốn là một vị Thiên sứ xuống đầu thai làm con của nàng phi thứ bảy của vua Lý Thái Tông, được vua rất yêu quý đặt tên là Linh Lang. Khi đất nước có giặc, Linh Lang nhỏ vươn mình bỗng trở thành một dũng sĩ cưỡi voi ra trận, đánh tan quân xâm lược. Sau chiến thắng đó hoàng tử lâm bệnh, chàng có nói với vua cha rằng mình không phải là người trần sao đó biến thành con giao long, trườn xuống hồ và biến mất. Vua bèn cho người lập đền thờ, phong là “Thượng đẳng thần”.

hà nội có gì?

Đền Kim Liên – Hà Nội

Đền Kim Liên trấn phía Nam: nằm trên địa bàn phường Phương Liên, Đống Đa, Hà Nội. Trong đền thờ thần tên là Cao Sơn. Truyền thuyết có kể lại rằng Thần đã có công giúp Sơn Tinh chiến thắng Thủy Tinh trong truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh và sau này còn giúp vua Lê Tương Dực dẹp nội thù, khôi phục nhà Lê. Do đó nhà Vua cho xây đền, dựng bia để hương khói phụng thờ.

hà nội có gì?

Đền Quán Thánh – Hà Nội

Đền Quán Thánh trấn phía Bắc: Đền Quán Thánh thờ Huyền Thiên Trấn Vũ hiện nay nằm giữa ngã tư đường Thanh Niên và đường Quán Thánh, Hà Nội. Tương truyền rằng: Huyền Thiên Trấn Vũ là một vị thần cai quản phương Bắc đã giúp dân chúng trừ tà ma và các loại yêu quái phá hoại đời sống của dân chúng vùng chung quanh thành Thăng Long. Vào thời nhà Lê, các vua Lê thường đến đây lập đàn cầu mưa cho dân chúng mỗi khi có hạn hán.

Trải qua bao thăng trầm, biến động của không gian và thời gian, Thăng Long tứ trấn vẫn được trùng tu và hiện nay vẫn thu hút người dân cũng như khách du lịch ghé thăm rất nhiều.

Hà Nội có gì? Bạn đang muốn tìm một nơi để giải tỏa tâm hồn nhưng chưa biết đi đầu thì hãy đến với Hà Nội – chuyến hành trình tại đây hứa hẹn sẽ mang đến cho bạn nhiều trải nghiệm thú vị. Tạm quên những điểm du lịch nổi tiếng trước đó và thử đặt chân đến đây xem sao nhé.

Đăng bởi: Thị Ngọc Huyền Hoàng

YOLO! Khám phá các quận/huyện ở Hà Nội

ALONGWALKER Singapore: The channel to explore experiences of global youth ALONGWALKER Philippines: The channel to explore experiences of global youth ALONGWALKER Indonesia: Saluran untuk mengeksplorasi pengalaman para pemuda global ALONGWALKER Malaysia: Saluran untuk menjelajahi pengalaman global belia ALONGWALKER Japan: 発見・体験、日本旅行に関する記事 ALONGWALKER Thailand: ช่องทางในการสำรวจประสบการณ์ของเยาวชนระดับโลก