Thanh Hoá

Thanh Hóa có gì?

Thanh Hóa là một tỉnh lớn nằm ở Bắc Trung Bộ, đứng thứ 5 về diện tích và đứng thứ 3 về dân số của Việt Nam. Nơi đây đã sản sinh ra bao người con ưu tú của dân tộc như: Bà Triệu, Lê Lợi, Lê Thánh Tông…….Không chỉ được biết đến là vùng đất giàu văn hoá, nhân kiệt mà nơi đây còn nổi tiếng với nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, thu hút đông đảo khách du lịch trong và ngoài tỉnh. Thanh Hóa có gì? Hãy cùng chúng tôi khám phá những địa điểm di tích, thắng cảnh đẹp tại Thanh Hóa trong bài viết sau đây nhé.

Thành Nhà Hồ – Thanh Hóa

Thành nhà Hồ thuộc địa phận hai xã Vĩnh Tiến và Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Đây là tòa thành kiên cố với kiến trúc độc đáo bằng đá có quy mô lớn hiếm hoi ở Việt Nam và có giá trị, độc đáo nhất còn lại ở Đông Nam Á và là một trong rất ít những thành lũy bằng đá còn lại trên thế giới. Thành được xây dựng trong thời gian ngắn, chỉ khoảng 3 tháng (từ tháng Giêng đến tháng 3 năm 1397) và cho đến nay, dù đã tồn tại được hơn 6 thế kỷ nhưng một số đoạn của tòa thành này còn lại tương đối nguyên vẹn. Ngày 27 tháng 6 năm 2011, sau 11 năm đệ trình hồ sơ, Thành nhà Hồ đã được UNECO công nhận là di sản văn hóa thế giới.

thanh hóa có gì?

Thành Nhà Hồ – Thanh Hóa

Thành nhà Hồ được xây vào năm 1397 dưới triều Trần do quyền thần Hồ Quý Ly chỉ huy, người không lâu sau (1400) lập ra nhà Hồ. Theo sử sách, thành bắt đầu xây dựng vào mùa xuân tháng 1 năm Đinh Sửu niên hiệu Quang Thái thứ 10 đời vua Thuận Tông của vương triều Trần. Người quyết định chủ trương xây dựng là Hồ Quý Ly, lúc bấy giờ giữ chức Nhập nội Phụ chính Thái sư Bình chương quân quốc trọng sự, tước Tuyên Trung Vệ quốc Đại vương, cương vị Tể tướng, nắm giữ mọi quyền lực của triều đình. Người trực tiếp tổ chức và điều hành công việc kiến tạo là Thượng thư bộ Lại Thái sử lệnh Đỗ Tỉnh (có sách chép Mẫn). Hồ Quý Ly xây thành mới ở động An Tôn (nay thuộc địa phận các xã Vĩnh Long, Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa), làm kinh đô mới với tên Tây Đô, nhằm buộc triều Trần dời đô vào đấy trong mục tiêu chuẩn bị phế bỏ vương triều Trần. Tháng 3 năm Canh Thân (26-3 đến 24-4-1400), vương triều Hồ thành lập (1400- 1407) và Tây Đô là kinh thành của vương triều mới, thành Thăng Long đổi tên là Đông Đô vẫn giữ vai trò quan trọng của đất nước. Vì vậy thành Tây Đô được dân gian quen gọi là Thành nhà Hồ.

Thành đá được xây dựng trong một thời gian kỷ lục, chỉ chừng 3 tháng. Các cấu trúc khác như các cung điện, rồi La Thành phòng vệ bên ngoài, đàn Nam Giao… còn được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cho đến năm 1402. Thành nhà Hồ được xây dựng và tồn tại trong những biến động cuối thế kỷ XIV đầu thê kỷ XV, gắn liền với sự nghiệp của nhà cải cách lớn Hồ Quý Ly và vương triều Hồ.

thanh hóa có gì?

Thành Nhà Hồ – Thanh Hóa

Thành Nhà Hồ có địa thế khá hiểm trở, lợi thế về phòng ngự quân sự hơn là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá. Vị trí xây thành đặc biệt hiểm yếu, có sông nước bao quanh, có núi non hiểm trở, vừa có ý nghĩa chiến lược phòng thủ, vừa phát huy được ưu thế giao thông thủy bộ.

Như mọi thành quách lúc bấy giờ, thành bao gồm thành nội và thành ngoại. Thành ngoại được đắp bằng đất với khối lượng gần 100.000 mét khối, trên trồng tre gai dày đặc cùng với một vùng hào sâu có bề mặt rộng gần tới 50m bao quanh.Bên trong thành ngoại là thành nội có mặt bằng hình chữ nhật chiều Bắc – Nam dài 870,5m, chiều Đông – Tây dài 883,5m. Mặt ngoài của thành nội ghép thẳng đứng bằng đá khối kích thước trung bình 2m x 1m x 0,70m, mặt trong đắp đất. Bốn cổng thành theo chính hướng Nam – Bắc – Tây – Đông gọi là các cổng tiền – hậu – tả – hữu (Cửa Tiền hay còn gọi là Cửa Nam, Cửa Hậu còn gọi là Cửa Bắc, cửa Đông Môn và cửa Tây Giai). Các cổng đều xây kiểu vòm cuốn, đá xếp múi bưởi, trong đó to nhất là cửa chính Nam, gồm 3 cửa cuốn dài 33,8m, cao 9,5m, rộng 15,17m. Các phiến đá xây đặc biệt lớn (dài tới 7m, cao 1,5m, nặng chừng 15 tấn).

Các cung điện, dinh thự trong khu vực thành đã bị phá huỷ, di tích còn lại hiện nay là 4 cổng thành bằng đá cuốn vòm, tường thành và đặc biệt là Di tích Đàn tế Nam Giao còn khá nguyên vẹn. Trong các phế tích đáng chú ý có nền chính điện chạm một đôi tượng rồng đá rất đẹp dài 3,62 m.

Thành Nhà Hồ thể hiện một trình độ rất cao về kĩ thuật xây vòm đá thời bấy giờ. Những phiến đá nặng từ 10 đến 20 tấn được nâng lên cao, ghép với nhau một cách tự nhiên, hoàn toàn không có bất cứ một chất kết dính nào. Trải qua hơn 600 năm, những bức tường thành vẫn đứng vững.

Được xây dựng và gắn chặt với một giai đoạn đầy biến động của xã hội Việt Nam, với những cải cách của vương triều Hồ và tư tưởng chủ động bảo vệ nền độc lập dân tộc, Thành Nhà Hồ còn là dấu ấn văn hóa nổi bật của một nền văn minh tồn tại tuy không dài, nhưng luôn được sử sách đánh giá cao.

Động Kim Sơn – Thanh Hóa

Danh thắng Kim Sơn là một quần thể danh thắng núi non và hang động thuộc xã Vĩnh An, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá. Cách đường quốc lộ 1 không xa, cách thành phố Thanh Hóa 50km, cách Hà Nội khoảng 150km, là điểm tham quan lý tưởng trong ngày.

thanh hóa có gì?

Động Kim Sơn – Thanh Hóa

Sách “Đại Nam nhất thống” từng ghi rằng: “Núi Kim Sơn có một tên nữa là núi Biện, cũng gọi là núi Bông… Mạch núi từ phía đông núi Hùng Lĩnh men theo sông Mã mà đổ xuống nổi vọt lên 29 ngọn, đứng xa mà trông, hiện ra nhiều hình như tàn lọng, như lâu đài, như cờ quạt, như voi ngựa như triện gấm hoa, như bình phong, khi râm khi nắng…. Sườn núi có một hồ sen rộng vài ba mẫu. Một ngọn ở Cốc sơn cao chừng 30 trượng, chân núi có một hang lớn hai đầu thông ra đầm sâu, có thể đi thuyền suốt từ đầu nọ sang đầu kia….”

Quả thực, theo người dân ở đây, trong dãy Kim Sơn có tới 7 động. Động liền hồ, hồ liền động, bảy động thông nhau nhưng chưa mấy người đi hết. Động Ngọc Kiều là động đầu tiên trong bảy động.

Từ dưới nhìn lên, tầng cửa động thứ hai tôn trí một tượng Phật lớn ẩn hiện giữa những tàng cây xanh mát. Động bên trong rộng lớn, chỗ cao hơn 50m, chỗ thấp chưa tới 3m. Lòng động có ban thờ Phật với tượng Phật tọa trên tòa sen. Giữa động có một hồ nhỏ hứng nước từ trên vách cao rỏ xuống, trong đặt tượng Thuỷ nguyệt Quan Âm. Cái tên Ngọc Kiều được đặt ra là bởi cửa động có đá bắc ngang qua tựa cây cầu Ngọc nên mới có tên như vậy. Trên vách động Ngọc Kiều có nhiều bức chữ được tạc vào đá, là chữ của nhiều danh gia như Nguyễn Xuân Tiêu, Bùi Tự, Trương Quang Đản, Nguyễn Thuật… Đa phần là danh sĩ cuối thời Nguyễn.

Động có nhiều nhũ đá, có khi gõ vào như tiếng chuông. Nơi động sâu nhất có hang lớn thông ra ánh sáng ngoài trời, có thể thông qua đó mà trông ra bên ngoài. Đá ở đây dựng cheo leo, khí thế mạnh mẽ, chen lẫn những cành cây xanh mướt.

Hẳn năm xưa, danh gia Bùi Tự cũng đã từng leo lên đỉnh núi nên mới có văn bia để lại, ca ngợi vẻ đẹp của danh thắng Kim Sơn.

Văn bia đại ý viết rằng, “Xưa nay, nơi có núi sông kỳ lạ đều ẩn chứa tinh hoa của trời đất, mà những bậc anh hùng hiền nhân quân tử bấy lâu vẫn dùng để gửi gắm bình sinh… Những nơi đặt chân đến cũng nhiều nhưng Kim Sơn có cái đặc sắc riêng không nơi nào có.”

Động Ngọc Kiều có điểm đặc biệt là động chồng tầng, tức động có hai tầng đi lên và 1 tầng đi xuống, có lẽ là độc nhất vô nhị. Trong động có cả các hố sụt, người ta gọi là giếng ngọc, tương truyền ở đây nước rất ngon. Du khách muốn nếm thử nước pha trà này có thể tự mang ấm trà dã ngoại đi để kiểm nghiệm xem lời tương truyền có thật như đồn đại.

Trên núi xưa có nhiều loài vật, giờ vẫn còn cả khỉ, trăn, cò. Chiều chiều, những cánh cò trắng bay rợp trời. Còn những chú khỉ khi vắng người lại trèo lên cây, lên núi đá. Có những du khách đến chơi không quên để lại trên núi những quả ổi, quả cam mời các chú khỉ làm quà.

Sự đa dạng của hệ thống đá ở đây cũng làm người ta dễ ngạc nhiên. Đá trắng nhọn hoắt dựng đứng đan xen với cây xanh tạo nên một bức tranh màu sắc tương phản mà hài hòa. Toàn bộ những dải núi lại được bao bọc bởi hồ, phía sau là dòng sông Mã uốn lượn – tựa một dải trường thành sừng sững trông về những đồi đá thấp và đỏ ở bên phía núi Quan Yên, Yên Định. Sự đan xen giữa nhiều sắc thái làm cho Kim Sơn vừa có sự tươi mát vừa có nét gai góc như những vách đá tai mèo.

Ngay cạnh động Ngọc Kiều là động Ngọc Hồ, động nước thông từ tây sang đông. Lòng động sâu và rộng gần cửa động có một cửa được đặt tên là Phong môn – cửa gió. Bên lòng có thể trông lên một hố sụt của động bên trên. Du khách có thể dừng thuyền chèo ở đây để có thể hưởng sự thanh mát, thoáng đãng của bầu không khí trong lành.

Trên đỉnh Ngọc Hồ có một ngọn núi cao được đặt tên là Điếu Đài (Đài câu cá). Đài câu cá ở trên vách núi chỉ là một ý niệm, có lẽ truyền tải khát khao được với tay tới tận non ngàn của người xưa. Nắng buổi chiều chiếu về phía cửa của động Ngọc Hồ, núi nhuộm sắc vàng, mặt hồ rộng rãi thoáng đãng, buổi chiều hàng đàn cò trắng bay về khu vực này tựa những bông tuyết đậu trên những cành cây khô.

Cây “bặn rừng” ở đây thường đổ lá chuyển mùa vào cuối thu và đầu đông, lá vàng rực rỡ, rất dễ làm người ta tưởng nhầm như lạc bước vào một vùng đầy cây cỏ của một xứ ôn đới nào đó.

Ngoài những Ngọc Kiều, Ngọc Hồ, còn có Ngọc Thanh, Tiên Sơn. Trong đó, động Tiên Sơn do người dân phát hiện ra sau năm 2003 được coi là đẹp nhất, nay đã được đầu tư làm điện và bắc thang kiên cố để có thể vào thăm một cách dễ dàng. Động rất rộng, diện tích có thể lên tới hàng chục mẫu. Trong động có đá hình tượng Quan Âm (sau đã được thỉnh về chùa Linh Ứng), có chỗ lại như hình kho vàng, kho bạc, kho lúa. Đây là động có hệ thống thạch nhũ đặc sắc nhất trong các động tại khu danh thắng này.

thanh hóa có gì?

Khu danh thắng Kim Sơn

Khu danh thắng Kim Sơn có đá xen lẫn với cây xanh nên vừa có sự kỳ dị mà nền nã, xa có hồ, có đồi phủ cây xanh mướt. Mùa hè có hoa sen, mùa thu có củ ấu, có những rặng bặn rừng chuyển mầu đủ để làm mát mắt suốt cả bốn mùa. Tiếng chuông chùa đổ rền vang lên mỗi chiều đầm mà ấm. Cảnh đẹp và bình yên cũng không phải nơi nào có được

Động Từ Thức – Thanh Hóa

thanh hóa có gì?

Động Từ Thức – Thanh Hóa

Động Từ Thức còn gọi là Động Bích Đào, thuộc địa phận xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Đây là một hệ thống hang động núi đá vôi có nhiều thạch nhũ muôn hình độc đáo, và gắn liền với truyền thuyết Từ Thức gặp tiên đầy thi vị được lưu truyền rộng rãi trong dân gian.

Truyền thuyết Động Từ Thức

Ở làng Cẩm La xưa, thuộc Tống Sơn (nay là huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá) có chàng trai tài giỏi tên là Từ Thức, được nhà vua cử làm quan tri huyện Tiên Du (Bắc Ninh ngày nay) và nổi tiếng thanh liêm, chính trực, yêu thích ngao du. Dịp xuân, Từ Thức đi chơi hội “mẫu đơn” ở một ngôi chùa nổi tiếng, đã gặp một thiếu nữ xinh đẹp đang bị giữ lại vì vô tình làm gãy một cành hoa mẫu đơn. Động lòng thương, Từ Thức liền cởi áo gấm chuộc lỗi cho cô gái.

Thời gian sau, Từ Thức treo ấn từ quan vì không muốn lợi danh ràng buộc. Về quê, chàng ngày ngày ngao du sơn thủy. Một hôm, tới cửa biển Thần Phù (Nga Sơn), thấy có một ngọn núi rất đẹp, chàng liền đến xem và làm một bài thơ khắc trên vách đá. Bỗng từ vách núi mở ra một cửa động, Từ Thức bước vào chốn bồng lai tráng lệ. Đang mải mê nhìn ngắm thì có hai thiếu nữ áo xanh mời chàng theo lối. Từ Thức được đưa tới gặp một vị tiên áo trắng đã cho chàng biết đây là động thứ 6 trong 36 động cõi tiên, rồi ngỏ rằng chàng sẽ kết duyên với con gái của bà là Giáng Hương, cô gái được chàng cứu ở hội “mẫu đơn” năm nào.

Từ Thức và Giáng Hương sống hạnh phúc trọn năm nơi tiên giới, nhưng chàng vẫn nhớ quê không nguôi, nhớ những cuộc ngao du nên ngỏ lời muốn về thăm. Cảm thông với chồng, Giáng Hương đành chuẩn bị xe mây và trao cho chàng một phong thư. Về tới quê, Từ Thức không gặp được ai thân thuộc, bèn hỏi một cụ già râu tóc bạc phơ và được kể rằng: thuở nhỏ, cụ nghe nói có ông tam đại tên là Từ Thức treo ấn từ quan, đi ngao du rồi mất tích.

Nghe chuyện, Từ Thức mới nhận ra một năm tiên giới bằng cả trăm năm chốn trần gian. Hối hận vì lòng trần chưa dứt, chàng muốn quay lại cõi tiên với vợ nhưng xe mây đã biến mất, mở phong thư mà Giáng Hương trao thì thấy lời biệt ly “Kết bạn loan trong mây, duyên xưa đã dứt – Tìm núi tiên trên biển, dịp khác không còn”. Buồn bã, chàng đi mãi về phía núi xưa hang cũ rồi biệt tích. Từ đó, dân gian gọi tên là động Từ Thức lạc thiên thai.

Du lịch Động Từ Thức

Trước lối vào động Từ Thức có khắc hai bài thơ chữ Hán ca ngợi vẻ đẹp thần tiên của động, một khắc trên phiến đá đặt dưới nền của chúa Trịnh Sâm với bút danh Nhật Nam Nguyên, một khắc trên vách đá cao của Lê Quý Đôn. Ngoài cửa động còn có một miếu nhỏ gọi là miếu Sơn Thần.

thanh hóa có gì?

Động Từ Thức – Thanh Hóa

Bước vào bên trong hang Từ Thức, đón du khách là gian động ngoài rộng rãi có hình vòng cung trông như một chiếc bát úp khổng lồ, trên trần có nhũ đá hình trái đào tiên rất đẹp, dưới nền động còn lưu lại vết tích ban thờ Từ Thức và những thạch nhũ lấp lánh được ví như kho vàng, kho bạc của nhân gian.

Đi tiếp theo hành lang hẹp, du khách sẽ vào gian động trong. Khắp động là những nhũ đá muôn hình lóng lánh, gợi lên những hình ảnh gắn liền với tình yêu của Giáng Hương và Từ Thức như: buồng tắm của Giáng Hương và thư phòng của Từ Thức, bàn cờ tiên, đôi chim thạch nhũ, mâm ngũ quả, dàn nhạc cụ… Vào sâu hơn trong động Từ Thức, du khách sẽ bắt gặp hồ nước nhỏ trong vắt, rải rác đây đó là những hòn cuội trắng, kề bên là hình dáng ao bèo bằng đá, điểm xuyết những chùm hoa đá màu trắng lục, rồi thì những tượng đá hình ông chầu, ếch tọa … như được bàn tay tạo hóa khéo léo sắp đặt.

Cuối động Từ Thức còn có 2 ngã rẽ. Một ngã với những bậc đá đều nhau, tương truyền là đường lên cõi tiên trên trời. Ngã còn lại rẽ sâu xuống lòng núi theo đường xoáy ốc với những bậc đá gập ghềnh, tối tăm, ẩm ướt là đường xuống âm ti địa phủ, dễ khiến du khách lo sợ mà nhanh chóng quay ra…

Truyền thuyết Từ Thức lên tiên và cảnh sắc kỳ thú bên trong động đã tạo nên sự hấp dẫn riêng cho nơi này, và làm phong phú thêm điểm đến cho du lịch Thanh Hóa. Năm 1992, động Từ Thức đã được công nhận là Di tích thắng cảnh cấp quốc gia.

Di tích thắng cảnh động Hồ Công – chùa Du Anh – Thanh Hóa

Thắng cảnh động Hồ Công là một quần thể bao gồm: Chùa Du Anh, động Hồ Công, núi Xuân Đài và núi Trác Phong xưa thuộc xã Thiên Vực, huyện Vĩnh Phúc (nay là xã Vĩnh Ninh, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa). Chùa Du Anh hay còn gọi là chùa Thông, một ngôi chùa cổ tọa lạc dưới chân núi Xuân Đài, đây là dãy núi đá đẹp thuộc huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hóa, chùa gắn với sự tích Trần Nghệ Tông đưa công chúa Du Anh về lễ chùa và dưỡng bệnh. Công chúa được điều trị bằng cây thuốc ở động Hồ Công khỏi bệnh. Vua Trần phát tâm công đức cho nâng cấp chùa, công chúa Du Anh trực tiếp đốc công. Từ đó chùa mang tên là Du Anh.

thanh hóa có gì?

Chùa Du Anh – Thanh Hóa

Chùa được xây dựng vào thời Lý, trải qua bao biến cố thăng trầm lịch sử chùa bị đổ nát đến niên hiệu Hoằng Định (1601 – 1619), Quảng quận công Trịnh Vĩnh Lộc người xã Sáo Sơn, huyện Vĩnh Phúc, phủ Thiệu Thiên (nay thuộc xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc) xuất tiền tôn tạo lại chùa, từ năm Tân Sửu (1601) đến năm Ất Tỵ (1605) chùa được cất dựng xong. Phía trước chùa nhìn ra núi Trác Phong, bên tả chùa có gác Ngọc Hoàng, bên hữu chùa có am Công chúa. Hai bên chùa có hai hồ nước Nhật Hồ và Nguyệt Hồ. Trong chùa có tấm bia ký do Hoàng Giáp Phùng Khắc Khoan (1528 – 1613), người làng Phùng Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây soạn năm Hoằng Định thứ 6 (1605) nhằm ca ngợi công đức của Quảng quận công Trịnh Vĩnh Lộc. Tấm bia đá với 4 mặt khắc chữ Hán trong đó, mặt trước khắc “Trùng tu Xuân Đài Sơn, Hồ Công động, Du Anh tự bi”, mặt sau khắc niên đại “Ngày lành tháng 10 niên hiệu Hoằng Định thứ 6 (1605)”. Ngoài ra, trong chùa còn lưu giữ tượng 2 linh vật là voi và sư tử thời Trần bằng đá trắng, trên bệ đá có khắc hình hộp, hoa văn sóng nước. Sư tử được đặt ở cổng chùa, hiện nay người dân ở vùng này còn lưu giữ thành ngữ: “Voi quỳ hổ phục hai bên, Hồ Công đệ nhất có tên đứng đầu”.

Nằm trong quần thể di tích chùa – động, động Hồ Công khơi nguồn cảm hứng cho du khách khi đến vãn cảnh.

Từ chùa Du Anh, đi theo các bậc đá nằm men theo sườn núi về phía Đông Nam đưa chúng ta đến động Hồ Công. Động Hồ Công hình dáng giống như bầu đá khổng lồ nằm ở lưng chừng núi Xuân Đài. Trong động có nhiều nhũ thạch đá rũ xuống tạo nên nhiều hình thù đẹp mắt, với muôn sắc màu tạo nên một không gian vừa thực vừa hư. Vẻ đẹp của động đã được sách Đại Nam nhất thống chí viết: “Có khối đá trông như hình con cóc cúi đầu ngồi trong động, thạch nhũ trong động sắc đỏ lại có hang đá quanh co dài mười trượng, chỗ tận cùng có giếng đá sâu khôn cùng…”. Động Hồ Công được mệnh danh “Tam thập lục Nam thiên, Hồ Công đệ nhất” (trời Nam có 36 động, động Hồ Công đẹp nhất).

Từ cửa động du khách nhìn xuống thấy làng mạc, đồng ruộng như một bức tranh sơn thủy hữu tình, nhìn ra xa thấy được núi Tiến Sĩ, hình như một nhà nho áo mũ chỉnh tề đang ngồi đọc sách. Ở cửa động có hai tượng đá, tương truyền xưa có một vị thầy thuốc tên là Hồ Công, vai đeo quả bầu nhỏ, ông thường ra chợ bán thuốc chữa bệnh, tối đến ông lại thu mình chui vào quả bầu để ngủ. Người ta thấy lạ hỏi: Quả bầu nhỏ thế mà sao ông vào ngủ được? ông già nói: Nhà ngươi có muốn chui vào thử xem thế nào không? Người ấy bằng lòng ông liền hóa phép cho anh ta chui vào trong quả bầu thì thấy trong đó có đủ trời, đất, trăng sao, nhà cửa … Người ấy chính là Phí Trường Phòng, biết ông già là bậc đại tiên nên đã theo học đạo và sau này cũng đắc đạo thành tiên. Hai thầy trò ở trong động đá trên dãy núi Xuân Đài rồi đi vào bất tử để lại hình hài hóa thành hai pho tượng đá trong động ngày nay.

thanh hóa có gì?

Động Hồ Công – Thanh Hóa

Với vẻ đẹp kỳ thú, tuyệt mỹ, động Hồ Công khơi nguồn cảm hứng để các bậc vua, chúa, tao nhân, mặc khách khi đến vãn cảnh đã để lại bút tích trên các vách động nhằm ngợi ca vẻ đẹp nơi đây. Năm 1463 vua Lê Thánh Tông về Lam Kinh bái yết lăng miếu tổ tiên, nhân chuyến du ngoạn vua lên núi Xuân Đài thăm động Hồ Công thấy phong cảnh tuyệt mỹ, Lê Thánh Tông đã làm bài thơ “Đề Hồ Công động” khắc vào đá:

“Thần gọt quỹ đẽo tạo nên dãy núi muôn trùng,

Thành nơi cửa cao nhà rộng giữa vũ trụ bao la.

Công danh trên đời đều là mộng cả,

Ngày tháng trong bầu nhàn nhã vô cùng.

Châu đem rơi xuống như rồng biến hóa ở đất Hoa Dương,

Ngọc trắng lạnh lẽo từ suối chảy từ cõi trời Bích lạc.

Ta muốn cỡi gió lên tận đỉnh núi cao chót vót,

Để ngắm hết biển mây ở giữa bầu trời bao la”.

Sau vua Lê Thánh Tông mất, vua Lê Hiến Tông lên ngôi, khi về Lam Kinh bái yết Sơn Lăng, nhà vua đã làm bài thơ “Ngự chế đề Hồ Công động”. Vào những năm 1750 – 1754, Nguyễn Nghiễm, thân phụ đại thi hào Nguyễn Du sau khi chinh phạt quân giặc Ai Lao khi trở về thăm động đã làm bài thơ “Hồ ngọc động” khắc trên đá nhằm ca ngợi vẻ đẹp của động. Trịnh Sâm là một vị chúa dưới thời Lê -Trịnh, trước vẻ đẹp của động đã đề 4 chữ đại tự “Thanh Kỳ khả ái” vào năm Canh Dần (1770) trên phiến đá lớn ở núi Xuân Đài.

Động Hồ Công – chùa Du Anh là một thắng cảnh đẹp được công nhận là di tích thắng cảnh cấp Quốc gia, là điểm thu hút khách du lịch thập phương bởi vẻ đẹp kỳ thú của thiên nhiên cùng với sự đan quyện của chất màu lịch sử và huyền thoại.

Thắng tích Hàm Rồng – Thanh Hóa

Hàm Rồng – một thắng tích nổi tiếng của xứ Thanh. Ở đây, sông – núi – ruộng đồng – làng xóm hòa quyện vào nhau, tạo thành một cảnh quan thật kỳ vĩ và sinh động, với nhiều di tích lịch sử – văn hóa cách mạng, cùng những truyền thuyết còn mãi với thời gian.

thanh hóa có gì?

Thắng tích Hàm Rồng – Thanh Hóa

Cầu Hàm Rồng bắc qua sông Mã, cách trung tâm TP Thanh Hóa gần 5km về phía Bắc. Cầu được xây dựng năm 1904 theo kiểu cầu vòm thép có trụ. Năm 1946, cầu được phá để tiêu thổ kháng chiến chống thực dân Pháp. Năm 1962 cầu được xây dựng lại gồm 2 nhịp dùng cho cả đường sắt và đường bộ và khánh thành ngày 19-5-1964. Đây là cầu đường sắt, đường bộ duy nhất đi qua sông Mã nối liền mạch giao thông chi viện sức người, sức của cho miền Nam ruột thịt. Cầu Hàm Rồng là cây cầu gắn liền với lịch sử của dân tộc Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và đế quốc Mỹ. Cầu Hàm Rồng đã đi vào lịch sử với trận đánh ngày 3 và 4-4-1965. Trải qua bao trận mưa bom, bão đạn, cầu Hàm Rồng vẫn sừng sững, hiên ngang, tựa vào núi Rồng, lung linh soi bóng trên dòng sông Mã.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, vào những giờ phút một mất, một còn với quân thù, người Hàm Rồng vẫn bình tĩnh, tự tin phát huy cao độ tinh thần của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lần lượt đánh bại mọi mưu đồ đen tối của chúng. Để trả lời kẻ thù “Đây sức mạnh Việt Nam – sức mạnh của bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước”, người Hàm Rồng đã lấy đá trắng xếp trên sườn cao của ngọn Cánh Tiên thành hai chữ “Quyết Thắng”, để tỏ rõ sự quyết tâm tiêu diệt hàng trăm “Thần sấm”, “Con ma”, “Giặc nhà trời”… của giặc Mỹ.

Đồi C4 là một trong những trận địa pháo cao xạ lừng danh nhất trên mảnh đất Hàm Rồng. Trên Đồi C4 bao gồm 2 quả đồi là đồi 57 (ra đa) hay còn gọi là đồi chỉ huy và đồi 54, nơi lực lượng đánh trực diện khi máy bay địch bổ nhào để ném bom xuống cầu Hàm Rồng. Dưới chân Đồi C4 là hai tấm bia đá lớn, một tấm bia ghi danh những thành tích trong chiến đấu của quân và dân Hàm Rồng được Đảng và Nhà nước khen thưởng; một tấm bia ghi danh 20 chiến sĩ đã ngã xuống nơi này.

thanh hóa có gì?

Đồi C4 – Thanh Hóa

Trong bối cảnh chiến tranh ác liệt, đê sông Mã nằm trong vùng trọng điểm đánh phá của đế quốc Mỹ. Ngày 14-6-1972, các giáo viên, học sinh trường y sĩ, Trường Sư phạm 7+3 Thanh Hóa, dân công Đông Sơn và nhiều chiến sĩ đã tham gia và hy sinh trên công trường đắp đê sông Mã. Tại nơi đây, 64 người đã ngã xuống. Để tưởng nhớ, ghi công các anh, các chị, một đài tưởng niệm được xây dựng ngay tại nơi xảy ra sự kiện bi thương ấy, nằm trong không gian các di tích lịch sử cách mạng khu vực Hàm Rồng. Những việc làm có ý nghĩa đó để ghi nhận: Tổ quốc và nhân dân mãi mãi không quên những người con ưu tú, đã góp một phần xương máu để đất nước hòa bình, phát triển như ngày hôm nay.

thanh hóa có gì?

Chùa Mật Đa – Thanh Hóa

Nằm khép mình trầm mặc giữa làng Nam Ngạn, cách cầu Hàm Rồng khoảng 500m về phía hữu ngạn sông Mã, chùa Mật Đa mang hàm nghĩa là rừng cây thơm ngọt của đất Phật. Chùa Mật Đa không chỉ là ngôi chùa đẹp linh thiêng trong tâm nguyện của nhân dân, mà còn là một di tích lịch sử ghi dấu những sự kiện trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, góp phần làm nên chiến thắng Hàm Rồng – Nam Ngạn (ngày 3 và 4-4-1965). Ngày nay, bên cạnh chùa Mật Đa, Tượng đài chiến thắng Nam Ngạn như minh chứng cho tinh thần bất khuất của quân và dân Nam Ngạn: “Tim có thể ngừng đập, nhưng đường không thể tắc. Sống anh dũng bám đường, chết kiên cường dũng cảm…”.

thanh hóa có gì?

Động Long Quang – Thanh Hóa

Động Long Quang (hay còn gọi là hang Mắt Rồng) – một thắng cảnh đẹp bên cầu Hàm Rồng lịch sử. Qua 23 bậc đá tới cửa động Long Quang, nhìn toàn bộ cảnh núi Rồng – sông Mã, cầu Hàm Rồng, có thể chiêm ngưỡng cảnh trí thiên nhiên của Hàm Rồng và toàn bộ đất trời xứ Thanh mênh mông chỉ trong tầm mắt. Động nằm ở giữa, thông suốt hai bên núi đầu Rồng, đúng vị trí đôi mắt của Rồng. Cửa động mở ra hai phía Đông Bắc – Tây Nam, con mắt phải nhìn về hướng Tây Nam, xưa kia là Hạc Thành, nay là TP Thanh Hóa; con mắt trái nhìn về hướng Đông Bắc, một vùng đồng bằng rộng lớn của xứ Thanh. Từ xa xưa đã là nơi du lãm, ngâm vịnh thơ ca của các bậc vua chúa, tao nhân mặc khách ca ngợi thắng cảnh núi Rồng – sông Mã – một bằng chứng sinh động về sức hấp dẫn đặc biệt của cảnh trí Hàm Rồng. Thời kỳ chống Mỹ phá hoại cầu Hàm Rồng, động Long Quang còn là nơi làm việc của đồn công an bảo vệ cầu.

Được phát hiện vào năm 1924, Di chỉ khảo cổ học Đông Sơn đã trải qua nhiều lần khai quật và đem lại một khối tư liệu phong phú như: Nhà sàn, bếp đun, mộ táng trống đồng. Hàng vạn hiện vật độc đáo từ những trống đồng Đông Sơn, từ những hiện vật của các vùng miền xa xôi trên thế giới cho đến những mảnh gốm được nung đốt trên chính đất Đông Sơn. Tất cả đã phản ánh một cách sinh động khách quan trình độ của đời sống vật chất – tinh thần của người Đông Sơn. Đây chính là vùng đất trung tâm của văn minh lưu vực sông Mã thời kỳ Hùng Vương.

Là một ngôi làng nhỏ nằm bên bờ Nam sông Mã, làng cổ Đông Sơn bao quanh là những núi đá nhỏ, đồi đất thấp nằm xen kẽ lẫn nhau. Đây là một trong những nơi tìm được trống đồng Đông Sơn và là một làng quê Việt Nam truyền thống, đậm nét văn hóa lâu đời. Nơi đây vẫn còn giếng cổ hơn 2.000 năm tuổi và 13 ngôi nhà cổ. Mỗi ngôi nhà ấy, di tích lịch sử ấy không chỉ có những giá trị về mặt kiến trúc, văn hóa thẩm mỹ mà còn mang trong mình những câu chuyện thú vị và đầy ý nghĩa. Đặc biệt ngôi nhà cổ của ông Lương Trọng Duệ, là ngôi nhà cổ bằng gỗ có kiểu kiến trúc điển hình ở thế kỷ XIX, còn tương đối nguyên vẹn, có giá trị về mọi phương diện, được gia đình ông Duệ gìn giữ qua nhiều thế hệ.

thanh hóa có gì?

Động Tiên Sơn – Thanh Hóa

Động Tiên Sơn nằm ở lưng chừng núi Mướn, thuộc làng cổ Đông Sơn. Hang động này được xem là mái nhà chung của cộng đồng người Việt cổ, bởi người ta tìm thấy trong đó có di cốt và những di vật chứng minh cho cuộc sống cách đây hàng nghìn năm. Đặt chân vào cửa động, ta sẽ cảm nhận được vẻ đẹp huyền bí của những phiến đá, tượng Phật, biểu tượng linh thiêng của văn hóa Á Đông. Đến với động Tiên Sơn như về với cội nguồn, lạc vào một thế giới thần tiên đầy ắp cả kho huyền thoại kỳ thú, in dấu trên từng phiến đá, nhũ đá lấp lánh hoa cương. Tại đây, ta sẽ được tận mắt chứng kiến những hình ảnh tuyệt đẹp, mà trời đất và thiên nhiên tạo hóa ban tặng cho con người xứ Thanh.

Chùa Phạm Thông hay còn gọi là chùa Đông Sơn, trước đây là nhà ở của hai vị danh y Quán Viên và Phạm Thông. Từ thời Trần, sau khi hai ông qua đời, ngôi chùa được nhân dân địa phương xây dựng lại thành nhà thờ. Người đời sau ngoài việc thờ hai ông, nhân dân còn đưa tượng Phật vào thờ. Chính vì thế từ một ngôi nhà, đến một nơi thờ, trở thành một nơi thờ Phật và thờ người có công trong việc chữa bệnh cứu người, nên nhân dân quen gọi là chùa. Chính điều đặc sắc này đã làm cho ngôi chùa có vị trí đặc biệt trong lòng mỗi người dân Đông Sơn nói riêng và giới phật tử nói chung.

Đền thờ các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng và các anh hùng liệt sĩ nằm trên khu vực đồi Cánh Tiên, được xây dựng trên diện tích 15 ha, với lối kiến trúc mang đậm nét tâm linh gồm nhiều hạng mục: Tháp chuông, đền thờ chính, nhà bia, hồ nước bán nguyệt, cổng chính và đền… Đây là điểm đến tham quan lịch sử rất có ý nghĩa đối với du khách trong nước và quốc tế, thắp nén tâm nhang để tri ân các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng đã cống hiến cho non sông đất nước, những người chồng, người con, các anh hùng liệt sĩ đã hiến dâng xương máu của mình. Đồng thời góp phần thiết thực trong việc giáo dục, khơi dậy truyền thống cách mạng vẻ vang của dân tộc.

thanh hóa có gì?

Thiền viện Trúc Lâm Hàm Rồng – Thanh Hóa

Tọa lạc trên dãy núi Hàm Rồng với tổng diện tích 40.000m2, Thiền viện Trúc Lâm Hàm Rồng gồm nhiều hạng mục công trình: Tam quan (hai lớp trong và ngoài), tam bảo, nhà thờ tổ, lầu chuông, trống, nhà tăng, nhà giảng kinh, thiền đường, bến thuyền,… nằm yên ắng, thanh tịnh trên ngọn đồi cao, bên bờ sông Mã, bao bọc xung quanh bởi rừng thông xanh ngút ngàn trải dài trên sườn đồi thoai thoải. Đường lên thiền viện uốn lượn quanh co, càng lên cao, con người như càng đi sâu vào cõi thoát tục… Thiền viện Trúc Lâm không chỉ là nơi quy tụ phật tử thập phương, đào tạo tín đồ Phật giáo, mà còn là nơi sinh hoạt ngoại khóa của đông đảo tầng lớp nhân dân và du khách gần xa.

Ngày nay, Hàm Rồng được quy hoạch thành khu du lịch văn hóa, trở thành một bảo tàng tự nhiên đồ sộ với tầm vóc và giá trị vô cùng to lớn. Mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất… đều đã trở thành những hiện vật sống, ghi lại chiến công lừng lẫy, hiển hách của quân và dân Thanh Hóa trong những năm tháng ác liệt của cuộc kháng chiến. Một Hàm Rồng kỳ tú, một Hàm Rồng anh hùng, một Hàm Rồng mãi là niềm tự hào, là biểu trưng khí phách của người xứ Thanh.

Núi Nhồi – Núi Vọng Phu – Thanh Hóa

Núi Nhồi cách trung tâm thành phố Thanh Hóa khoảng 3km về phía Tây, thuộc địa phận hai xã Đông Hưng và Đông Tân (ngày nay thuộc địa phận thành phố Thanh Hóa). Bao quanh núi Nhồi gồm các núi quần tụ liền nhau, đó là núi Đống (phía Tây), núi Chân Thần (phía Tây Nam), núi Nấp (Quảng Náp phía Nam), núi Chồng Mâm (núi Đình Thượng – phía Bắc). Dưới chân núi là dòng Hương Giang lượn quanh làng xóm đông đúc rồi thông ra sông Mã, tạo nên cảnh thiên nhiên hùng vĩ, hữu tình. Xưa kia dưới chân núi Đống, đã từng diễn ra cảnh trên bến dưới thuyền, tấp nập kẻ mua người bán các sản phẩm chế tác từ đá núi Nhồi. Đá núi Nhồi đã đi muôn nơi, có mặt ở hầu khắp các công trình kiến trúc, lăng tẩm, đền đài, bia ký, tượng đá… Những bàn tay tài hoa của người thợ đục đá làng Nhồi đã tạo nên những tác phẩm nghệ thuật bằng đá tuyệt mỹ và vô giá. Chất đá ở đây nổi tiếng là quí hiếm, không nơi nào có được. Đó là sản vật quý của mọi người, sắc đá ống ánh như ngọc lan, chất xanh biếc như khói nhạt, tiếng đá vang trong, nổi tiếng tận Trung Hoa. Thời Bắc thuộc, các Thái thú lấy đá núi Nhồi làm khánh chở về Trung Quốc, khánh đá núi Nhồi kêu ngân vang như tiếng chuông.

thanh hóa có gì?

Núi Nhồi – Núi Vọng Phu – Thanh Hóa

Núi Nhồi còn có tên là núi Khế, núi An Hoạch, Nhuệ Sơn, núi Vọng Phu. Từ xa, ta có thể nhìn thấy trên đỉnh núi Nhồi nổi bật trên nền trời một trụ đá hình người phụ nữ bế con hướng nhìn ra phía biển Đông xa xôi, nên đặt tên là “Đá Vọng Phu” (Vọng Phu Thạch – Đá trông chồng). Trải bao gió bụi của thời gian, hình ảnh đó vẫn cứ “trơ gan cùng tuế nguyệt”. Nhiều văn nhân, thi sĩ đã dừng chân, đề thơ, tiêu biểu là bài thơ của Đại thi hào Nguyễn Du:

“Đá chăng? Người đó? Chi đây?

Một mình trên ngọn núi này ngàn năm

Bạn đời không chút mộng rằng

Điều trinh giữ vẹn tấm thân muôn đời

Mưa thu lệ cũng tuôn rơi

Dấu rêu lấp triện, phi lời văn chương

Núi đồi lớp lớp khói sương

Để riêng bạn gái luân thường nêu cao”

Và trong dân gian Thanh Hóa còn lưu truyền câu thơ:

“Vọng Phu trẻ mãi không già

Thủy chung đứng đó biết là chờ ai?”

Dưới chân núi Vọng Phu và các núi chung quanh là quần thể di tích lịch sử văn hóa phong phú. Đó là: Chùa Hinh Sơn (Hinh Sơn Tự, còn có tên là Chùa Hang dưới chân núi Vọng Phu), chùa Tiên Sơn (phía Đông núi Khế), Đình Thượng (trên sườn núi Chồng Mâm, thờ thần núi), chùa Báo Ân (Đông Hưng) xây dựng khoảng năm 1099 – 1100, chùa Quan Thánh (Đông Hưng), lăng Quận Mãn (Mãn Quận Công, làng Nhuệ) hiện còn bia đá, cặp hổ phục, rồng chầu, cặp ngựa đá, hai cặp tượng đá (dũng lực sĩ, cường lực sĩ, tráng lực sĩ, đinh lực sĩ). Đây được coi là công trình kiến trúc nghệ thuật điêu khắc đá độc đáo ở Thanh Hóa thế kỷ XVIII.

Cửa Hà – Thanh Hóa

Cửa Hà là một thắng cảnh miền núi xã Cẩm Phong, huyện Cẩm Thủy. Nơi này có ngọn núi đá vôi cao 220m, vách đá dựng đứng, quanh năm soi bóng nước dòng sông Mã hiền hoà xuôi về biển cả. Đỉnh núi gồm nhiều điểm nhấp nhô, tạo nên những hình thù kỳ dị.

thanh hóa có gì?

Cửa Hà – Thanh Hóa

Đoạn sông Mã chảy trên đất Cẩm Thủy qua những thác ghềnh như thác Ngốc, thác Sóng Ngàn… cho đến đất Phong Ý thì lòng sông mở rộng đến trên 200m trông như một hồ lớn, nước trong xanh hiền hòa trong mùa khô, cuộn xoáy trong mùa mưa. Đoạn sông này với bờ sông được bồi đắp bằng cát pha sỏi vàng, óng ánh dưới ánh nắng vàng thu trông xa như một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ. Về phía tả ngạn có một ghềnh đá nhô ra mặt nước, tạo cho cảnh Cửa Hà thiên nhiên thơ mộng.

Tại đây, bờ bên tả là vách núi dựng đứng cao trên 220m, đỉnh núi nhấp nhô. Nơi đây tập trung các bè gỗ, luồng nứa rất nhiều để đổ về xuôi. Tên Cửa Hà có từ đầu thế kỷ XIX, khi huyện lỵ Cẩm Thủy chuyển từ Cẩm Vân về Phong Ý thuộc địa phận 2 xã Cẩm Sơn và Cẩm Phong. Cửa Hà có vẻ đẹp ngoạn mục của một cửa sông miền xuôi. Cảnh ngoạn mục ấy nằm ngay bên vùng rừng núi hùng vĩ, âm u của miền sơn cước tạo nên vẻ đẹp riêng khiến cho Cửa Hà trở thành một thắng cảnh của xứ Thanh.

Sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn đã xếp cửa Hà là danh thắng. Năm 1937, đã có dự định mở hội chợ Đông Dương tại đây, nhưng sau không thực hiện.

Đền Cửa Hà (Sơn Hà tự – Thung Chẹ) được xây dựng từ thế kỷ XV thờ các anh hùng liệt nữ có công giữ gìn vùng đất này, cũng là để thờ thần sông, thần núi, thờ các nghĩa sĩ trận vong Lam Sơn và thờ Mẫu. Trên vách đá dựng đứng ở độ cao 5m ngay sau mái đền, ta dễ nhìn thấy những vần thơ tuyệt tác Bích Mai Nhai ca ngợi phong cảnh cửa Hà với tất cả nỗi niềm xao xuyến:

Phiên âm:

Sơn nguy nguy hề thủy thanh thanh

Bất kiến nhân hề khước hữu tình

Đắc ý hoảng nghi du bích lạc

Dương tiên hỗn tự bộ vân trình

Không Không thiên lại tiêu thiều vận

Hác lịch tuyền lưu gác thược thanh

Tá vấn đăng lâm du thiển khách

Ngô châu hà xứ thị bồng doanh

Tạm dịch:

Núi cao vời vợi nước trong xanh

Cảnh cũ người nay thật hữu tình

Những tưởng du chơi vườn bích ngọc

Vung roi vó ngựa chốn mây xanh

Vẳng vẳng nhạc thiều êm sáo trúc

Rì rầm suối ngọc khúc liên thanh

Du lãm chốn này bao du khách

Bồng lai tiên giới cảnh đâu bằng.

Suối cá Cẩm Lương – Thanh Hóa

Cẩm Lương là một xã miền núi, nằm trong thung lũng của dãy núi đá vôi Bồ Um, cạnh sông Mã. Cư dân ở đây chủ yếu là người Mường. Khí hậu quanh năm ôn hoà, mát mẻ (nhiệt độ trung bình 20 – 22oC). Suối cá Cẩm Lương (hay còn gọi là Vó cá Cẩm Lương, hang cá Cẩm Lương) nằm trong địa phận làng Ngọc, xã Cẩm Lương, huyện Cẩm Thuỷ, cách huyện lỵ Cẩm Thuỷ 10 km về phía Tây – Bắc, cách thành phố Thanh Hoá 80 km về phía Tây.

thanh hóa có gì?

Suối cá Cẩm Lương – Thanh Hóa

Theo dân làng Ngọc kể lại thì hang cá ở đây có từ xa xưa. Có nhiều truyền thuyết nói về sự xuất hiện của đàn cá, nhưng hầu như đều chung một quan niệm đó là những thần linh của núi, sông đang ngày đêm bảo vệ cuộc sống yên vui của bản làng. Vì vậy đàn cá được dân bản địa phong là Cá Thần, mọi người không dám đánh bắt ăn thịt. Và cứ thế, cùng với thời gian, đàn cá ngày càng sinh sôi, nảy nở.

Suối Ngọc chảy ra từ một hang lớn của núi Bồ Um. Cửa hang rất nhỏ, chỉ một người chui lọt, lòng hang rất rộng và nước sâu. Đàn cá sống trong hang, có tới hàng ngàn con. Những con cá Chúa nặng khoảng 20 đến 30 kg, mang có vòng đỏ, ánh vàng tựa như đeo khuyên bằng vàng. Ngày thường cá Chúa không ra khỏi hang, mà chỉ vào mùa lũ, nước to, chúng mới ra khỏi hang, nhưng cũng rất ít người trông thấy. Suối Ngọc không dài lắm, từ cửa hang ra tới khu vực đền Ngọc khoảng 150m, chỗ rộng nhất khoảng 6m, chỗ nước sâu nhất độ 1m. Đàn cá hàng ngàn con nặng từ 2 đến 8kg quanh quẩn ở đoạn suối này rồi vào hang, không bao giờ ra khỏi dòng suối, mặc dù phía ngoài là một cánh đồng rộng.

Nước suối Ngọc bao giờ cũng trong vắt, cả mùa mưa lẫn mùa khô. Dưới dòng suối là một lớp đá cuội óng ánh dưới ánh mặt trời như những viên ngọc càng tạo ra vẻ đẹp kỳ diệu khi đàn cá bơi lội qua. Dân bản Ngọc hàng ngày thường ra suối tắm giặt, rửa rau, vo gạo, đàn cá không sợ người mà rất thân thiện, quây quần quấn quýt quanh người.

Bên cạnh suối có đền Ngọc, thờ Tứ phủ Long Vương. Đền còn đơn sơ, nhưng là nơi ngày rằm, mùng một nhân dân quanh vùng đến thắp hương tế lễ, cầu thần Tứ phủ Long Vương phù hộ cho sức khoẻ và công việc làm ăn của con người.

Phía trên suối Ngọc là dãy núi Trường Sinh, có một động lớn người ta còn gọi là động cây đăng (trước đây có một cây đăng cổ thụ trước cửa động, nhưng nay không còn nữa). Vị trí của động cao khoảng 70 m so với khu vực suối Ngọc. Cửa động rộng từ 5 – 8 m, cao khoảng 7 m nên rất dễ ra vào. Trong động có nhiều nhũ đá với những cảnh tượng như đôi trai gái đang đứng ôm nhau, người con gái có suối tóc dài tận gót, tượng mẫu tử, bầu sữa, kho lúa, kho vàng… trông rất đẹp mắt và nên thơ.

Suối cá và những hang động ở làng Ngọc – Cẩm Lương là một địa danh phong cảnh hữu tình, với những truyền thuyết huyền bí về đàn Cá Thần, đúng là một danh thắng nổi tiếng của quê hương Thanh Hoá cần được tôn tạo và bảo vệ.

Quần thể di tích Am Tiên – Thanh Hóa

Quần thể di tích Am Tiên gắn với sự tích cuộc khởi nghĩa Bà Triệu, nằm trên đỉnh núi cao nhất của dãy núi Ngàn Nưa, cách mặt nước biển hơn 500m, thuộc địa phận huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Quần thể bao gồm “Núi Nưa – Đền Nưa – Am Tiên”, với tổng diện tích 100 ha, riêng khu vực đền Am Tiên rộng 4 ha.

Theo sử tích, năm 248, Bà Triệu cùng người anh trai Triệu Quốc Đạt đã tập hợp nghĩa sĩ, rèn luyện nghĩa quân, đứng lên khởi nghĩa đánh đuổi giặc Đông Ngô, giành lại giang sơn, xã tắc. Bà chọn Ngàn Nưa là nơi hiệu triệu nghĩa quân, bởi theo lời sấm truyền: Dãy Ngàn Nưa được tạo thành từ bảy ngọn núi xếp liền kề tạo thế rồng cuốn, đầu nhô cao như đầu hổ vươn mình về biển Đông – nơi đặt Am Tiên, đứng ở nơi đây hét lớn tứ phía đều nghe rõ.

thanh hóa có gì?

Quần thể di tích Am Tiên – Thanh Hóa

Trên đỉnh núi Ngàn Nưa, có động Am Tiên, Giếng Tiên, Bàn cờ Tiên, Vườn Thuốc Tiên và Vườn Đào Tiên mà sử sách và truyền thuyết đã nhắc đến như một chốn tu tiên đắc đạo. Giếng Tiên nằm trên đỉnh núi cao 580 m so với mực nước biển, gắn với nhiều huyền thoại kỳ bí; nước trong giếng từ núi chảy ra nên rất tinh khiết, nguồn nước chảy vào giếng được gọi là Long mạch. Tương truyền rằng, các tiên nữ xưa kia thường xuống đây hái đào và tắm nước giếng, vì vậy được gọi là Giếng Tiên. Đây cũng chính là giếng dành riêng để Bà Triệu lấy nước rửa mặt mỗi khi xung trận, nước trong giếng rất trong mát và không bao giờ cạn, cứ múc bao nhiêu lại đầy bấy nhiêu. Ngoài ra còn có ngôi chùa cổ gọi là chùa Am Tiên (được ghi chép trong sách Đại Nam nhất thống chí), đền chúa Thượng Ngàn (dân gian cho rằng đó là Bà Triệu hoá thân) và miếu Tu Nưa (thờ vị đạo sĩ thời Trần – Hồ). Ở đây còn có cả một ban thờ lộ thiên thờ thần núi Tản Viên. Năm 2009, thắng cảnh này được nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.

Từ cổng đền Am Tiên đi vào sâu bên trong khoảng hơn 100 m, du khách hành hương sẽ thấy một khoảng đất rộng, được rào chắn kỹ lưỡng, bán kính khoảng 21 m, đây chính là huyệt thiêng, hay gọi là huyệt khí dương. Theo các nhà phong thủy, đây là điểm hội tụ giao hòa của đất – trời, hay còn gọi là nơi mở cửa trời, tất cả những tinh hoa và linh khí của trời đất sẽ được hội tụ tại huyệt đạo thiêng này. Bốn hướng huyệt đạo đều có bốn bát hương, ở giữa có một bát hương của thổ thần ứng với Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ.

Tại huyệt đạo Am Tiên, có thể cảm nhận được sự chuyển động của vũ trụ và có những câu chuyện huyền bí đã xảy ra mà cho đến giờ vẫn chưa thể lý giải được. Đứng trên huyệt đạo có thể nhìn thấy 4 phương 8 hướng đất trời. Khi thả lỏng cơ thể, tập trung mọi suy nghĩ lên đôi mắt, ít nhiều sẽ cảm nhận được luồng ánh sáng thoáng qua. Ban đầu ánh sáng có màu đỏ, dần chuyển sang màu cam, rồi chuyển dần sang màu trắng xanh và cuối cùng là hình ảnh các hạt bụi lẫn trong màu trắng xanh đó. Bên huyệt đạo, con người như được tiếp thêm năng lượng, sinh khí của đất trời, tâm thái nhẹ nhõm lạ kỳ.

Sau bao nhiêu năm, Ngàn Nưa vẫn thăm thẳm bí hiểm và phong kín bao huyền thoại về vị nữ thủ lĩnh anh hùng của cuộc khởi nghĩa năm xưa. Nhiều người đã lấy núi Nưa làm đề tài sáng tác, ngâm vịnh, mà hiện nay vẫn còn những bài thơ đặc sắc về núi Nưa như: “Na Sơn ca”; “Bài ca thích ngủ” và “Bài ca thích cờ” của Nguyễn Dữ thế kỷ thứ XVI… Sự thiêng liêng trên đỉnh Ngàn Nưa và động Am Tiên trên đỉnh núi còn được ghi chép cụ thể trong sách Đại Nam Nhất thống chí và còn lưu truyền trong câu chữ dân gian:

“Na Sơn nhất phiến, nhất hộ thiên hạ biến dịch:
Một tiếng hô ở núi Nưa chuyển cả thiên hạ”.

Hàng năm, Lễ hội đền Nưa – Am Tiên được tổ chức kéo dài đến ngày 20 tháng Giêng. Ngay từ những ngày đầu năm, du khách đã hành hương đến huyệt đạo linh thiêng này để cầu mong những điều tốt lành cho năm mới và chờ đón ngày “mở cửa trời” vào mùng 9 tháng Giêng để đón linh khí trời đất. Trong ngày hội chính, từ sáng sớm lễ hội đã bắt đầu với màn rước cỗ dâng lễ vật bằng kiệu bát cống với những sản vật là hoa quả và bánh dầy – một đặc sản của địa phương được làm bằng gạo nếp cái hoa vàng… để làm lễ tế thiên địa, thần linh và cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi.

Bãi biển Sầm Sơn – Thanh Hóa

Bãi biển Sầm Sơn có hình trăng khuyết, chạy dài 9km từ chân núi Trường Lệ đến xã Quảng Cư (thị xã Sầm Sơn), rộng hàng nghìn mét, bằng phẳng, cát mịn, không có chỗ quá sâu, lầy thụt hoặc đá ngầm, sau hô nhờ đó, đã tạo nên những bãi tắm lý tưởng, người tắm có thể ra khá xa bờ vẫn thấy an toàn.

thanh hóa có gì?

Bãi biển Sầm Sơn – Thanh Hóa

Nước biển Sầm Sơn có độ mặn và nhiệt độ thích hợp, có lợi cho sức khỏe và có khả năng chữa được một số bệnh, rất thích hợp cho con người nghỉ ngơi, an dưỡng. Nhà học giả người Pháp Le Breton nhận định: “Đây là bãi tắm tốt nhất để phục hồi sức khoẻ”.

Sóng biển Sầm Sơn nhẹ nhàng, khí hậu điều hòa như chiếc máy điều hòa nhiệt độ khổng lồ, giữ cho mùa hè lộng gió và dịu mát, mùa đông bớt phần giá buốt. Biển Sầm Sơn có gần 1.000 loại tôm, cua, cá và nhiều hải sản quí hiếm; đặc biệt có món gỏi cá và lẩu rắn biển được nhiều người ưa thích.

Sầm Sơn còn có một loại phương tiện đi biển đặc biệt đó là: những chiếc mảng làm bằng luồng. Năm 1994, ông Tim Severin đã đóng và hạ thủy tại đây một chiếc mảng vượt đại dương làm bằng những cây luồng Thanh Hóa. Ông mời anh Lương Văn Lợi – một ngư dân sở tại cùng vượt Thái Bình Dương và trở về an toàn. Đến tham quan, ta có thể nghe anh Lợi kể lại chuyện vượt biển này và xem những bức ảnh chụp chiếc mảng đang thử thách trước những cơn bão lớn giữa vùng biển Nhật Bản và Đài Loan.

Sầm Sơn không chỉ có bãi biển đẹp, bãi tắm tuyệt vời, lại có cả núi đá, đủ các hòn lớn, nhỏ, nằm, ngồi, chồng lên nhau thành muôn hình muôn vẻ, ngay cạnh mép nước biển, có rừng cây bóng mát, có đền chùa, di tích với nhiều truyền thuyết cổ tích, dân gian… lý thú. Đó là đền thờ thần Độc Cước, đền Cô Tiên, đền Tô Hiến Thành, hòn Trống Mái v.v…

Đền Độc Cước: Đền thờ một vị thánh một chân, có kỳ tích bảo hộ quê hương chống loài quỉ biển. Đền ở trên núi Cổ Rùa, thuộc dãy Trường Lệ. Dãy núi này có hình thù một phụ nữ nằm ngửa, bộ ngực nở nang. Đền có ghi năm trùng tu vào niên hiệu Chính Hòa (1675 – 1705).

Đền Cô Tiên: Đền được xây trên hòn Đầu Voi, dưới chân là Vụng Ngọc và hòn Câu. Nơi đã được Bác về thăm và nghỉ tại đây (1960).

Đền thờ Tô Hiến Thành: một đại thần triều Lý (thế kỷ XII) nổi tiếng thanh liêm chính trực, từng cầm quân vào dẹp loạn ở vùng ven biển Thanh Hóa, nhờ thế nhân dân được an cư lạc nghiệp.

Hòn Trống mái: Nơi có hai hòn đá to nhỏ châu vào nhau, xung quanh là những đá nhỏ. Truyền thuyết nói đây là một gia đình có đôi vợ chồng và đàn con đã hóa thành đá, để vĩnh viễn thuỷ chung bên nhau. Nhà văn Khái Hưng có tiểu thuyết Trống Mái là do cảm hứng từ cảnh đẹp này.

Đã từ lâu Sầm Sơn nổi tiếng là một khu du lịch và nghỉ mát có nhiều thắng cảnh. Kể từ năm 1981 đến nay, Sầm Sơn được xây dựng và phát triển trên những quy mô mới của một thị xã du lịch. Hàng trăm khách sạn, cơ sở điều dưỡng của các bộ, ngành ở Trung ương và trong tỉnh, của các tư nhân với nhiều kiểu dáng vừa hiện đại, vừa đậm nét kiến trúc truyền thống được xây dựng với những điều kiện phục vụ ngày càng hiện đại, nhằm phục vụ cho khách tham quan du lịch, nghỉ mát trong nước và khách nước ngoài. Trong tương lai, khu du lịch và nghỉ mát này sẽ còn được đầu tư và phát triển.

Biện Sơn – Thanh Hóa

Biện Sơn còn có tên là Cù lao Biện ở về phía Đông Nam, huyện Tĩnh Gia, giáp huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Từ trong đất liền trông ra, Biện Sơn giống như một con chiến mã khổng lồ đang nằm ngủ, phía Đông Biện Sơn là biển cả mênh mông, phía Tây là vụng Ngọc và đất liền, phía Nam là hòn Cù, phía Bắc là đảo Mê và nhiều hòn đảo khác, được mệnh danh là Thập bát Mã Sơn và đều có hướng quay nhìn về Biện Sơn. Dân gian có câu:

“Bung, Mê, Sổ, Sập tứ bề

Hòn Vàng choi chói, chầu về Biện Sơn”.

thanh hóa có gì?

Biện Sơn – Thanh Hóa

Địa thế Biện Sơn có nhiều ngọn núi cao thấp, nhấp nhô như làn sóng biển. Nhiều hòn đá, hang đá trên đảo tạo nên những hình tượng tuyệt mỹ. Đứng trên đỉnh cao của Cù lao Biện nhìn bốn phía mênh mông biển cả, sóng vỗ dập dờn, nhấp nhô, xanh biếc. Xưa kia nơi đây cây cối um tùm, rợp bóng quanh năm, được mệnh danh là hòn đảo xanh, hòn ngọc của bờ biển miền Trung.

Biện Sơn có vụng Ngọc, nơi tàu thuyền ra vào, nghỉ lại an toàn, không sợ bão to sóng lớn, có giếng Rửa Ngọc (Tẩy Ngọc), có giếng nước ngon trong mát, người đi biển thường ghé tới lấy nước pha trà, có sự tích An Dương Vương, Mỵ Châu, Trọng Thủy cùng nhiều kỷ niệm lịch sử và huyền thoại.

Biển Biện Sơn bốn mùa tôm, cá và hải sản quý. Đặc biệt có yến sào, ngọc trai, sò huyết… Khí hậu Biện Sơn mùa hè dịu mát, không khí trong lành, đã có con đê lớn nối với đất liền. Biện Sơn đang cùng với đảo Mê và các đảo lân cận hình thành cụm du lịch sinh thái biển lý thú trong khu công nghiệp Nghi Sơn.

Biện Sơn xưa và nay vẫn là thắng cảnh đẹp như dân gian hằng ca ngợi:

“Biện Sơn biển bạc, rừng vàng

Ai đi đến đó, lãng quên đường về”

Khu Lam Sơn – Lam Kinh – Thanh Hóa

Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Lam Kinh nằm trên địa bàn thị trấn Lam Sơn và xã Xuân Lam (huyện Thọ Xuân), xã Kiên Thọ (huyện Ngọc Lặc), với tổng diện tích quy hoạch bảo tồn là 200ha.

thanh hóa có gì?

Khu Lam Sơn – Lam Kinh – Thanh Hóa

Lam Kinh vốn là đất Lam Sơn, quê hương của anh hùng Lê Lợi, ngư­ời có công chiêu mộ hiền tài, quy tụ nhân dân đánh đuổi giặc Minh xâm lược (1418 – 1427). Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế (Lê Thái Tổ), lập nên vương triều Hậu Lê, đóng đô ở Thăng Long, mở ra thời kỳ phát triển mới cho quốc gia Đại Việt. Năm 1430, Lê Thái Tổ đổi tên vùng đất Lam Sơn thành Lam Kinh. Kể từ đó, các kiến trúc điện, miếu… cũng bắt đầu được xây dựng tại đây, gắn với hai chức năng chính:

  • Điểm nghỉ chân của các vua Lê khi về cúng bái tổ tiên, đồng thời, cũng là nơi ở của quan lại và quân lính thường trực trông coi Lam Kinh.
  • Khu tập trung lăng mộ của tổ tiên, các vị vua, hoàng thái hậu nhà Lê và một số quan lại trong hoàng tộc.

Về diện mạo kiến trúc của di tích hiện nay, có thể điểm tới một số công trình tiêu biểu như:

Chính điện Lam Kinh: theo tư liệu lịch sử và khảo cổ học, chính điện Lam Kinh được dựng ngay sau khi vua Lê Thái Tổ băng hà (năm 1433). Bố cục mặt bằng của kiến trúc này có dạng hình chữ “công”, với tổng diện tích là 1.645,04m2,gồm 3 tòa điện chính: Quang Đức, Sùng Hiếu và Diên Khánh. Hiện nay, trong khu vực này chỉ còn lại dấu tích nền móng, với 127 tảng kê chân cột, nền lát, bó vỉa cùng một số hiện vật khác.

Thái miếu: là nơi thờ cúng tổ tiên, các vị vua và hoàng thái hậu nhà Lê. Theo kết quả khai quật khảo cổ, trong khu vực này gồm 9 tòa kiến trúc. Hiện nay, đã tôn tạo, phục hồi được 5 tòa (các tòa số 3, 4, 5, 6, 7).

Sân rồng: là một trong những kiến trúc có diện tích lớn nhất trong khu trung tâm của điện Lam Kinh, nằm tại phía sau Ngọ môn, chính giữa có 3 lối đi lên chính điện theo bậc thềm rồng.

Đông trù: nằm ở phía Đông Nam của chính điện, được coi như khu vực hậu cần, bếp núc để phục vụ cho toàn bộ khu vực trung tâm của Lam Kinh.

Tả vu, Hữu vu: nằm về hai bên sân rồng, hiện chỉ còn lại nền móng và một số chân tảng kê cột cùng một số hiện vật khác.

Tây thất: nằm trên một gò đất nhỏ ở phía Tây của Chính Điện, ngoài phạm vi thành Nội. Hiện nay, khu vực này chỉ là phế tích kiến trúc.

Cầu Bạch: mới được phục hồi, dài 17m, rộng 5,50m, bắc qua sông Ngọc, nằm trên trục đường chính dẫn vào khu trung tâm chính điện Lam Kinh.

Hệ thống tường thành: gồm 3 vòng thành (La thành, thành Nội và thành Ngoại). Năm 2008, một số đoạn của La thành phía Đông và phía Tây cầu Bạch đã được khôi phục (với tổng chiều dài 21m).

Hồ Như Áng, kênh dẫn nước đập nhà Lê, hồ Tây: trước kia, khu vực này vốn là vùng đất trũng, xung quanh có nhiều khe suối nhỏ. Lợi dụng địa thế tự nhiên, nhà Lê đã cho đào kênh dẫn nước về hồ Tây, để cung cấp cho toàn bộ khu vực Lam Kinh.

Núi Dầu: cách lăng vua Lê Thái Tổ khoảng 500m. Trên núi có đền thờ bà hàng Dầu, gắn liền với truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

Lăng mộ Lê Thái Tổ và bia Vĩnh Lăng: Vĩnh Lăng được xây dựng trên một dải đất bằng phẳng, ở phía Nam chân núi Dầu. Năm 1995, Vĩnh Lăng đã được trùng tu, xây lại bằng gạch, bên ngoài ốp đá đục nhám, phía trước lăng có 2 tượng quan hầu và 4 đôi tượng con giống bằng đá, đứng chầu vào đường “thần đạo” của lăng.

Bia Vĩnh Lăng được làm bằng đá trầm tích nguyên khối, cao 2m79, rộng 1m94, đặt trên lưng rùa đá. Nội dung văn bia ghi lại thân thế, sự nghiệp của Lê Thái Tổ. Đây là một công trình điêu khắc đá có giá trị nghệ thuật, đồng thời cũng là tư liệu quý giá trong việc nghiên cứu lịch sử giai đoạn Lê Sơ.

Lăng mộ Lê Thái Tông và Bia Hựu Lăng: nằm trên đỉnh cao của rừng Phú Lâm, thuộc xã Xuân Lam, cách Vĩnh Lăng 800m. Bia Hựu Lăng được dựng cách lăng khoảng 20m. Hiện nay, bia đã bị mất, chỉ còn lại rùa đá nằm nguyên ở vị trí ban đầu.

Lăng mộ Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao và bia Khôn Nguyên Chí Đức: tọa lạc trên một khu đất thấp, gọi là Xà Đàm (đầm Rắn), cách Vĩnh Lăng 700m về phía Đông. Năm 1998, lăng mộ được trùng tu lại bằng gạch vồ, mặt ngoài trát xi măng, hai bên tạc tượng người và động vật bằng chất liệu đá.

Bia Khôn Nguyên Chí Đức dựng năm Mậu Ngọ (1498), làm bằng chất liệu đá xanh nguyên khối, cao 2m76, rộng 1m90. Trán bia và diềm bia trang trí hình rồng 5 móng và hoa lá cách điệu…

Lăng mộ Lê Thánh Tông và Bia Chiêu lăng: nằm sát gò Đình (xã Xuân Lam). Bia được dựng vào mùa xuân năm Mậu Ngọ, niên hiệu Cảnh Thống (1498).

Lăng mộ vua Lê Hiến Tông và Bia Dụ Lăng: nằm ở bên phải của Vĩnh Lăng, giáp hồ Tây. Bia Dụ Lăng nằm cách lăng mộ khoảng 30m, được làm bằng đá nguyên khối, cao 2m78, rộng 1m98.

Lăng mộ Lê Túc Tông và Bia Kính Lăng: được xây trên đỉnh núi “Hổ Xứ Ngọc Giăng Đèn”, thuộc địa phận xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc.

Bia Kính Lăng được dựng vào tháng 3 năm Đoan Khánh thứ nhất (1505), nội dung bia ghi về thân thế, sự nghiệp của vua Lê Túc Tông.

Đền thờ vua Lê Thái Tổ: tọa lạc ở phía Đông Nam khu di tích Lam Kinh, Năm 1996, đền này được tôn tạo lại, với kết cấu khung gỗ lim, theo mẫu thức của kiến trúc truyền thống, bao gồm các hạng mục: tiền đường, nhà cầu (ống muống) trung đường và hậu cung.

Ngoài các kiến trúc kể trên, trong khu vực Lam Kinh còn có hệ thống công trình phụ trợ cùng nhiều di vật, cổ vật có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học khác.

Tại Khu di tích, vào dịp tháng 8 (Âm lịch) hàng năm, cứ đến ngày 21 (giỗ Lê Lai) và 22 (giỗ Lê Lợi), nhân dân trong vùng lại long trọng tổ chức lễ hội để tưởng nhớ công ơn của các vị anh hùng giải phóng dân tộc, đồng thời thể hiện ước vọng cầu cho mưa thuận gió hòa, đời sống ấm no hạnh phúc…

Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của di tích, ngày 27/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Lam Kinh là Di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 1419/QĐ-TTg).

Vườn Quốc gia Bến En – Thanh Hóa

Vườn Quốc gia Bến En nằm trong địa giới hành chính các xã: Xuân Bái, Bình Lương, Xuân Bình, Hóa Quỳ thuộc địa bàn hai huyện Như Xuân và Như Thanh, cách thành phố Thanh Hóa 36 km về phía Tây Nam. Đây là một cảnh quan thiên nhiên, được xếp vào loại đẹp nhất trong 10 vườn quốc gia của cả nước. Vườn có tổng diện tích 16.634 ha, gồm 18 tiểu khu và dãy núi đá vôi Hải Vân; vườn có khu vực núi thấp; khu vực đồi gò có 121 hòn đảo nhỏ; hai con sông: sông Mực, sông Chàng và bốn con suối: Hàn Vị, Thổ, Cốc, Tạm. Hồ sông Mực có trên 40 loài thủy sản, nổi tiếng là cá mè. Hồ dưới có nhiều đảo đá vôi, cho ta cảm giác như đến với một vịnh Hạ Long thu nhỏ.

thanh hóa có gì?

Vườn Quốc gia Bến En – Thanh Hóa

Rừng Bến En là rừng thứ sinh với nhiều kiểu rừng kín khác nhau, các nhà chuyên môn phân biệt thành nhiều kiểu. Hệ thực vật có 462 loài, 125 bộ. Đáng chú ý là lim xanh và các loại lim vẹt, lát hoa, dổi, sến mật, chò chỉ, bù hương, vàng tâm. Ưu thế là lim xanh, săng lẻ, đặc trưng của hai luồng thực vật miền Bắc, miền Nam. Còn nhiều cây nguyên liệu (song, mây) cây cho dầu, cây làm thuốc, hoa phong lan.

Động vật rừng Bến En cũng đa dạng: côn trùng có 132 họ, 31 giống và 300 loài. Có 62 loài thú: có 19 loài được liệt vào sách đỏ Việt Nam. Có cả hổ, voi châu Á, vượn bạc má, gấu chó, khỉ là những loại liệt vào hạng đang bị đe doạ tuyệt chủng. Chim có 162 loài, 114 giống, 44 họ, 18 bộ. Có loài Myđeria Leucocephala là loại quý hiếm cấp độ quốc gia. Đã ghi nhận được 88 loài bướm của 10 họ, trong đó:

  • Loài Ypthima là chưa được biết tới ở Việt Nam.
  • 4 loài được coi là cống hiến mới: Meganoton (rufescens), Anbuly Clavata, Clanistitan, Smenrin thulus qua draiphunctatus.
  • Lưỡng cư và bò sát cũng đa dạng. Đã ghi nhận được loài Bufogabatus là loại hiếm trong sách đỏ Việt Nam.

Vườn quốc gia Bến En là một vườn quý hiếm, tiềm năng đa dạng và phong phú về sinh học và phong cảnh, sẽ giúp nhiều cho các loại hình du lịch và cho việc nghiên cứu thiên nhiên Thanh Hóa.

Thanh Hóa có gì? Bạn đang muốn tìm một nơi để giải tỏa tâm hồn nhưng chưa biết đi đầu thì hãy đến với Thanh Hóa – chuyến hành trình tại đây hứa hẹn sẽ mang đến cho bạn nhiều trải nghiệm thú vị. Tạm quên những điểm du lịch nổi tiếng trước đó và thử đặt chân đến đây xem sao nhé.

Đăng bởi: Thơm Trần

YOLO! Khám phá các huyện ở Thanh Hóa

ALONGWALKER Singapore: The channel to explore experiences of global youth ALONGWALKER Philippines: The channel to explore experiences of global youth ALONGWALKER Indonesia: Saluran untuk mengeksplorasi pengalaman para pemuda global ALONGWALKER Malaysia: Saluran untuk menjelajahi pengalaman global belia ALONGWALKER Japan: 発見・体験、日本旅行に関する記事 ALONGWALKER Thailand: ช่องทางในการสำรวจประสบการณ์ของเยาวชนระดับโลก