Huế Thừa Thiên Huế

Huế có gì?

Huế – mảnh đất cố đô nằm giữa dải đồng bằng duyên hải miền Trung cần mẫn – từ lâu đã thu hút khách du lịch tứ phương nhờ vẻ đẹp bình dị mà không kém phần cổ kính. Không chỉ vậy Huế còn thu hút du khách với những công trình văn hoá và lịch sử lâu đời mà còn “làm mê say” biết bao tâm hồn du lịch với những danh lam thắng cảnh đẹp đến nao lòng. Huế có gì? Hãy cùng chúng tôi khám phá những địa điểm di tích, thắng cảnh đẹp tại Huế trong bài viết sau đây nhé.

Núi Ngự Bình – Huế

Từ xưa đến nay, núi Ngự và sông Hương là hai thắng cảnh thuộc vào hàng số một của xứ Huế. Hễ nói đến sông Hương là người ta nghĩ ngay đến núi Ngự, và khi nghe đến núi Ngự, người ta liên tưởng đến sông Hương. Với vẻ đẹp “bẩm sinh” do tạo hóa ban tặng và do “ông tơ bà nguyệt” kết nghĩa xe duyên, núi Ngự và sông Hương trở thành một cặp tình nhân chung thủy keo sơn, luôn luôn hiện hữu bên nhau như hình với bóng. Hai thực thể địa lý tự nhiên này đã đi vào đời sống văn hóa của cộng đồng cư dân địa phương và tồn tại mãi trong tâm thức của họ từ bao đời nay. Sông Hương núi Ngự cũng đã được “nhân cách hóa” để cùng chia sẻ vui buồn với người dân xứ Huế qua các giai đoạn thăng trầm của lịch sử. Núi sông cũng “khô héo lá gan”, “đầy vơi giọt lệ” khi người Huế bị rơi vào hoàn cảnh đau thương.

huế có gì?

Núi Ngự Bình – Huế

Núi Ngự Bình nằm cách bờ nam sông Hương khoảng 3km, ở địa điểm trước kia thuộc ấp Tứ Tây, làng An Cựu; sau đó thuộc xã Thủy An, thành phố Huế; nay lại thuộc phường An Cựu của thành phố. Tuy hòn núi này chỉ cao 104m, nhưng vì nó đột khởi giữa chỗ đất bằng, ở một vị thế đặc biệt, cho nên, ngay từ thế kỷ XVII, nó đã nằm trong tầm ngắm và lọt vào mắt xanh của các nhà quy hoạch và xây dựng đô thị Huế. Thật vậy, trong các bộ sách lịch sử và địa chí của mình, Quốc sử quán triều Nguyễn đều ghi rõ rằng vào năm 1687, khi chúa Nguyễn Phúc Thái cho dời Thủ phủ từ Kim Long về làng Phú Xuân, các nhà kiến trúc bấy giờ đã dùng hòn núi đặc biệt này làm tiền án, một yếu tố phong thủy trong kiến trúc cổ. Bấy giờ, nó đã được gọi là hòn Mô hoặc Bằng Sơn. Bằng là loài chim rất to lớn, như chim đại bàng chẳng hạn. Sở dĩ đặt tên Bằng Sơn là vì hòn núi mang dáng vẻ như một con chim đại bàng dang hai cánh để bay. Đây là một hòn núi tự nhiên, nhưng, từ phía bắc nhìn lại, trông nó cân phân, hai cánh hai bên đông tây đối xứng với nhau một cách đều đặn như do bàn tay con người đắp nên và tạo dáng. Hơn nữa, hai triền núi ở hai bên lại hơi chìa ra phía trước trông giống như hai cánh tay đang dang ra phía trước để chào đón một đối tượng nào đó của mình. Cái đẹp của núi Ngự không phải là về mặt phong thủy che chở cho kinh thành Huế, cái đẹp của núi Ngự chính là chỗ nó gần gũi với dân Huế, nó trở thành một cái đài, một ngôi lầu cao vút và lên đó theo những bậc cấp nhân tạo người ta có thể phóng tầm mắt mình chiêm ngưỡng vẻ đẹp dịu hiền của thành Huế, lắng nghe những tiếng vọng từ bên dưới rất xa, và có cảm tưởng như mình đang ở vào một thế giới nào đó, thoát tục.

Cùng với Núi Ngự thì Sông Hương là một quà tặng vô giá mà thiên nhiên đã ban tặng cho người dân Huế. Vẻ đẹp của Sông Hương được ví như một dải lụa hiền hoà miên man chảy rồi như một người dẫn đường xuôi dòng nước đưa chúng ta đến miệt vườn Vỹ Dạ với vườn hoa thảm cỏ xanh mướt, ngược lên Thiên Mụ để thả mình theo tiếng chuông chùa văng vẳng, rồi đột ngột rẽ vào sông Bạch Yến tới bến Huyền Không để phiêu diêu cùng với gió mây, với thế giới của hoa thơm trái ngọt và thiền giữa một không gian cổ kính. Đã biết bao lần đến Huế, lúc vội vã, lúc thong dong, nhẩn nha nhưng Huế đã để lại trong mỗi chúng ta một tình cảm hết sức đặc biệt tựa như là một cố nhân vậy. Không sao quên được bởi Huế dịu dàng quá, thậm chí đến cái nắng cũng dè dặt sợ làm người khác khó chịu, nhưng cũng rất đỗi ngây thơ tinh nghịch xiên qua vành nón Huế (nay đã là thương hiệu) trêu chọc những cô nữ sinh trường Quốc Học, Hai Bà Trưng đang tha thướt trong tà áo dài. Còn những ngày mưa Huế lại khoác trên mình tấm áo choàng cổ kính, đượm buồn dễ gợi cho khách cái cảm giác nhớ mong… Không những cảnh đẹp, người hay mà còn nghe nói Huế xưa có nhiều trò chơi lãng mạn và lịch lãm, rồi có cả những thú vui trần tục như: Thả thuyền, chơi trăng, ca Huế, ngủ đò, thả thơ. Tinh hoa của những trò chơi ấy nay vẫn còn và còn được nâng lên tầm cao mới trở thành văn hoá du lịch mà chỉ có ở Huế. Về đêm, sông Hương trở nên huyền hoặc hơn, ánh đèn điện hắt xuống dòng sông như tráng một lớp ánh bạc, gió mơn man, dìu dịu như xoa nhẹ lòng du khách, thuyền bồng bềnh trôi giữa dòng chở đầy khách và nhạc công. Các âm hưởng của giai điệu đó đã đem lại cho người nghe cái cảm giác bâng khuâng tiếc thương, buồn cảm, nó như sợi tơ mong manh chạm vào tận đáy lòng du khách, gợi lên nhiều nỗi tương tư…

Từ lâu, ngọn núi xinh đẹp này cùng với sông Hương trong xanh đã trở thành biểu tượng của thiên nhiên Huế. Vì vậy, người ta quen gọi Huế là xứ sở của sông Hương và núi Ngự. Và thật khó có thể tách núi Ngự ra khỏi sông Hương bởi chỉ cần tách một trong hai thực thể đó thì người ta sẽ thấy Huế bớt đẹp, bớt mộng mơ hơn… Phải chăng chính vì thế mà từ xưa khi cho xây dựng bộ Cửu Đỉnh thì vua Minh Mạng đã cho đúc hình ảnh của “ căp đôi ” này lên bộ đỉnh đó để khẳng định vẻ đẹp tuyệt mỹ của hai danh thắng bậc nhất của mảnh đất “ Cố Đô ”.

Núi Bạch Mã – Huế

Cách Huế 60km về phía Nam, Núi Bạch Mã hay dãy Bạch Mã là một dãy núi đẹp, là ranh giới tự nhiên giữa tỉnh Huế và thành phố Đà Nẵng . Dãy núi này nằm trong vườn quốc gia Bạch Mã và ở độ cao 1.450m, là nơi nghỉ mát nổi tiếng ở Việt Nam. Trên đỉnh núi hùng vỹ 4 mùa xanh tươi với thác nước, suối rừng, là cả một vùng khí hậu ôn đới như ở SaPa, Tam Ðảo, Ðà Lạt…

huế có gì?

Núi Bạch Mã – Huế

Núi Bạch Mã nổi tiếng bởi có những con suối và nhiều ngọn thác ngoạn mục. Thác Ðỗ Quyên cao 400m, rộng 20m, vào những ngày hè, hai bên bờ thác, hoa Ðỗ Quyên nở rộ như hai thảm lụa hoa khổng lồ. Ở trung tâm khu nghỉ mát có ngọn thác Bạc cao 10m, rộng 40m như một bức rèm trắng muốt đung đưa trước gió.Ðứng trên đỉnh núi Bạch Mã du khách có thể thu vào tầm mắt toàn cảnh lộng lẫy của đèo Hải Vân, núi Túy Vân, đầm Cầu Hai và ánh điện lung linh của thành phố Huế vào ban đêm.

Khí hậu Bạch Mã chắc chắn là một trong những khí hậu dễ chịu nhất của những nơi nghỉ trên vùng cao của Đông Dương. Nhờ gần biển, nhiệt độ không bao giờ vượt quá những giới hạn sau: lạnh nhất mùa đông +4 độ c, nóng nhất mùa hè + 26 độ c. Từ tháng 2 đến tháng 5 Dương lịch, vũ lượng thấp nhất. Độ nhiệt mát mẻ chứ không lạnh. Nó biến thiên từ 10 độ đến 22 độ. Không một thời kỳ nào khác trong năm mà rừng đầy hoa có thể đẹp hơn và khí hậu có thể ôn hòa hơn.

Từ tháng 6 đến tháng 9, các buổi ban mai đầy ánh nắng thật rực rỡ, thỉnh thoảng vào các buổi chiều, có vài cơn mưa dông ngắn ngủi. Độ nhiệt trở nên êm dịu hơn, người ta ghi nhận 18 độ vào buổi sáng và về đêm. Những trận mưa lớn chỉ bắt đầu vào cuối tháng 9 và kéo dài 3 tháng phù hợp với chế độ mưa của miền trung.

Năm 1932 người Pháp đã xây dựng ở đây một khu nghỉ mát lớn ở độ cao từ 1.000 – 1.444 m. Toàn khu nghỉ mát có 139 biệt thự, có chợ, ngân hàng, bưu điện, hồ bơi, sân quần vợt… và một hệ thống đường ô-tô dài 19 km nối quốc lộ 1A với khu trung tâm của thành phố Bạch Mã. Sau chiến tranh, khu nghỉ mát Bạch Mã trở nên hoang tàn đổ nát. Thăm lại những dấu tích các ngôi biệt thự, có nhà chỉ còn cái nền và những bức tường chỏng chơ với gió mây, hẳn bạn sẽ không khỏi mang cảm giác bùi ngùi khi đứng trước những di chứng còn lại của thời gian.

Trong khoảng thời gian khu nghỉ mát Bạch Mã đang chìm ngủ thì vườn quốc gia nguyên sinh vẫn thức và nuôi trong lòng nó một tài nguyên sinh vật vô cùng đa dạng và phong phú. Ðến thăm Bạch Mã, ngoài việc thưởng thức không gian nguyên sinh rộng lớn, đi trong mây và ngắm những vẻ đẹp bàng bạc tinh khôi của Bạch Mã, khách du lịch còn được tham quan một thế giới tự nhiên vô cùng phong phú.

Bạch Mã có khoảng 501 loài thực vật với nhiều loài quý như cẩm lai, trắc trầm hương, cốm Bạch Mã; 55 loài thú quý với nhiều họ, chi. Khoảng thời gian bị lãng quên của Bạch Mã đem lại cho nơi này vẻ thiên nhiên hoang sơ. Ði trong các con đường mòn nho nhỏ xuyên qua những cánh rừng, bạn dễ dàng bắt gặp các loài thú, chim lạ như gà lôi lam mào đen, gà lôi lam mào trắng, trĩ sao…

Các khu biệt thự vừa được Vườn quốc gia Bạch Mã xây dựng và cải tạo lại để đón khách nằm ở lưng chừng núi. Ðể lên được tới đỉnh, bạn phải leo qua nhiều quãng dốc mới đến nơi. Nhưng bù lại từ trên đỉnh núi, bạn như vượt lên trên mây bởi mây chỉ lưng chừng trên núi. Từ đây bạn có thể phóng tầm mắt nhìn một không gian rộng lớn ở Bạch Mã và nhìn về Huế. Ngay trong các căn biệt thự mà bạn sẽ nghỉ lại trên đỉnh Bạch Mã, bạn cũng có thể nhìn ra một vùng rừng núi trập trùng và lãng đãng mây.

Đồi Vọng Cảnh – Huế

Huế nổi tiếng với nhiều thắng cảnh tự nhiên, trong đó phải kể đến là đồi Vọng Cảnh, tọa lạc ở phía Nam thành phố Huế. Đồi Vọng Cảnh được xem như một công viên phục vụ các hoạt động đi dạo, thưởng ngoạn ngắm cảnh, nghỉ ngơi kết hợp các chuyến du lịch đường bộ và đường thủy dọc sông Hương cho người dân thành phố và du khách gần xa. Nếu có dịp về thăm xứ Huế, du khách nhớ tìm đến đồi Vọng Cảnh.

huế có gì?

Đồi Vọng Cảnh – Huế

Ðồi ở cách trung tâm thành phố Huế khoảng 7km. Ðồi Vọng Cảnh không đẹp bằng Núi Ngự Bình, nhưng đúng như tên gọi của nó vì đứng ở trên đồi Vọng Cảnh có thể nhìn thấy được phong cảnh nên thơ của thành phố Huế đặc biệt là khu Lăng tẩm của các vua Nguyễn. Đoạn đường lên đồi không xa mà cũng không gần, hai bên đường tỏa đầy bóng mát, gió thổi qua xoa dịu cơn nóng dọc đường. Du khách có thể thong dong, vừa tản bộ vừa ngắm phong cảnh hữu tình xung quanh. “Chinh phục” ngọn đồi cũng là một trải nghiệm thú vị khi đến với đồi Vọng Cảnh.

Đứng trên đồi Vọng Cảnh, du khách có được một cái nhìn bao quát đối với nhiều di tích cổ kính và những cảnh đẹp tuyệt vời ở một không gian thiên nhiên rộng lớn. Du khách có thể nhìn thấy được lăng Minh Mạng, điện Hòn Chén, lăng Khải Định, lăng Tự Đức, lăng Thiệu Trị, lăng Đồng Khánh v.v.. là những lăng tẩm của các vua nhà Nguyễn. Đặc biệt, du khách sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của dòng sông Hương – một biểu tượng của thiên nhiên Huế. Ngọn đồi nằm giữa khúc cong hấp dẫn nhất của dòng sông Hương. Từ trên cao nhìn xuống, sông Hương hiện ra như một dải lụa mềm mại, dịu dàng dưới chân đồi.

huế có gì?

Đồi Vọng Cảnh – Huế

Đứng trên đồi Vọng Cảnh, du khách cũng có thể nhìn thấy được phong cảnh nên thơ của thành phố Huế mộng mơ. Đó là những vườn cây ăn trái nổi bật, những ngọn thông “khoe dáng”, những mái nhà ngói xám của đền chùa, lăng tẩm cổ kính… Xa xa là những con thuyền xuôi ngược chở khách tham quan trên dòng sông Hương.

Nếu đến đồi Vọng Cảnh vào những buổi bình minh hay những lúc hoàng hôn du khách sẽ được chiêm ngưỡng những khoảnh khắc tuyệt đẹp của thiên nhiên. Đó có thể là khoảnh khắc sương tan mờ ảo trên đồi nhường chỗ cho ánh mặt trời đón chào ngày mới. Đó có thể là khoảnh khắc mắt trời ló dạng phủ lên rừng thông một màu đỏ hoe.

Và, đó có thể là khoảnh khắc hoàng hôn buông xuống mang đến một không gian ấm áp, lãng mạn trên đồi Vọng Cảnh. Đến với đồi Vọng Cảnh, du khách cũng có thể tổ chức các hoạt động cắm trại, chụp ảnh cưới hoặc họp nhóm bạn bè. Đồi Vọng Cảnh chắc chắn sẽ mang đến cho du khách nhiều trải nghiệm đáng nhớ.

Núi Túy Vân – Huế

Cách thành phố Huế chừng 50km về phía nam, Túy Vân – Núi Rùa (xã Vinh Hiền, Phú Lộc) có cái tinh khiết, trong trẻo gần như tuyệt đối của một vùng trời, nước và đảo hoang sơ, ít dấu chân người.

huế có gì?

Núi Túy Vân – Huế

Du khách đến tham quan núi Túy Vân thường đi theo hai đường: từ thành phố Huế về Thuận An, rồi đi theo đường ven biển để đến núi; hoặc từ Huế qua quốc lộ 1A về Đá Bạc, từ đây đi đò máy qua đầm Cầu Hai thì đến nơi, đường dài khoảng 30km

Túy Vân là một ngọn núi nhỏ gần cửa Tư Hiền, nổi lên giữa một hòn đảo xanh, hùng vĩ, ngày xưa có tên gọi là Mỹ Am Sơn. Núi có dáng dấp đẹp, trong một lần chúa Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) đi qua đây, thấy phong cảnh thơ mộng, hữu tình, bèn lập một ngôi chùa nhỏ làm nơi cầu phúc cho dân địa phương.

Đến đời vua Minh Mạng cho xây dựng lại và đổi tên là chùa Tuý Ba. Năm vua Minh Mạng thứ 17 (1837), chùa được tùng tu và xây dựng thêm lầu. Đến năm Thiệu Trị nguyên niên (1841), chùa được tiếp tục trùng tu và đổi tên chùa Tuý Vân.

Vua Thiệu Trị liệt Tuý Vân vào thắng cảnh của đất thần kinh trong bài thơ “Vân Sơn thắng tích” và cho khắc bia đá dựng bên chùa đặt tên “Linh Thái, Túy Vân hệ nhị quốc gia chi thắng cảnh” (Linh Thái, Tuý Vân đều là thắng cảnh của quốc gia). Qua bao năm tháng chiến tranh, chùa, lầu gác hư hại nhiều, hiện nay công tác bảo tồn vẫn đang được thực hiệnTrên đỉnh Túy Vân, nổi lên có ngọn tháp ba tầng là Điều Ngự. Đứng ở tầng 2 và 3, có thể nhìn thấy hết toàn cảnh của huyện Phú Lộc. Giữa lưng chừng núi là chùa chính, dưới chân núi còn có ngôi Chùa Lớn làm chỗ ở cho chư tăng, trước và sau chùa có nhiều cây lá sum suê. Đặc biệt, trên hàng trăm tầng cấp của chùa có nhiều cây thông cổ thụ sừng sững.

Từ núi Túy Vân nhìn phía đông khoảng 700m có núi Linh Thái, còn gọi là Quy Sơn hay Núi Rùa. Một lần chúa Nguyễn Phúc Tần đến đây, thấy ở đỉnh núi có ngôi tháp Chàm được người dân địa phương cho biết rất linh, bèn cho dời ngôi tháp đi nơi khác rồi lập chùa thờ Phật với tên gọi Vĩnh Hoà.

huế có gì?

Núi Túy Vân – Huế

Từ chân núi Túy Vân sang bãi biển đá dưới chân Núi Rùa chỉ mất chừng 10 phút. Ở đây, các quần thể đá to nhỏ chồng xếp lên nhau tạo ra những hốc động thật kỳ thú. Từng mảng sóng bạc đầu dội vào hốc đá vút lên cao mù mịt liên hồi. Tiếng sóng, gió biển hoà với tiếng reo của lá cây tạo nên một sự cộng hưởng của âm thanh hoang dã.

Trên một dải cát hẹp của bờ biển, các quần thể đá hình như những con rùa là nơi tập trung nhiều loại vỏ hải sản tấp vào bờ, tạo dáng như một hòn non bộ rất bắt mắt. Du khách đến đây sẽ thích thú khi đi dạo quanh núi rừng và ven theo con đường ven biển rợp bóng dương, đọc sách, bơi, ăn đồ biển và ngủ trên cát. Những người thích mạo hiểm hơn thì băng qua những tảng đá và phải “chịu trận” của từng đợt sóng để đứng trên tảng đá cao ngất ngưỡng giữa không gian bao la.

Đồi Thiên An Và Hồ Thủy Tiên – Huế

Có một địa danh mà khi nhắc đến thì có nhiều người đã có thời thanh xuân ở Huế đều dấy lên trong lòng những kỷ niệm khó quên. Ðó là Thiên An – một vùng đồi hoang vắng với những bước chân dài mấy mươi năm để đi vào thơ ca, với những chiếc lá thông rơi vương kín áo tình nhân; Với những giọt nước thủy chung ở Hồ Thủy Tiên huyền thoại; Với những mối tình xanh dưới bóng thông già.

huế có gì?

Đồi Thiên An Và Hồ Thủy Tiên – Huế

Thiên An là một vùng đồi núi nhấp nhô nằm ở phía Nam thành phố Huế, trên tuyến đường đi thăm lăng Khải Ðịnh, qua khỏi ngã ba Cầu Lim chừng 2km. Thiên An hiện ra trước mặt bạn một màu xanh của ngàn thông với lô nhô triền đồi, mái lá và con đường dốc ngoằn ngèo chạy vào ký ức.

Quần sơn này gồm 140 ngọn đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 60ha. Ðường bình đồ, xê dịch từ 60m-125m, điểm cao nhất chính là ngọn đồi có đan viên Thiên An tọa lạc. Chính các đan sĩ người Pháp thuộc dòng tu khổ hạnh Bénedictine đã khai phá và đặt tên cho Thiên An. Ngày 25-1-1935 tu viện Pierre de Vire ở Pháp phái cha Wandrelle đến Việt Nam để xem xét một việc thành lập đan Viện. Cha đã chọn khu Bất động sản Vielle ở Ðà Lạt để xây dựng đan viện vào tháng 10 năm đó. Sau đó Ðức cha tu viện trưởng Fulbert Gloreces ở Pháp đã cử cha Romain Guillaume đến cai quản Ðan Viện ở Ðà Lạt, chính cha Romain là người sáng lập ra đan viện Thiên An vào 3-1940- trong quá trình mở rộng ảnh hưởng dòng Bénédictine lên phía Bắc Việt Nam. Ngày 6-10-1940 Lễ khánh thành Ðan Viện Thiên An bằng một lễ MiSa được cha Romain tổ chức và ông đã chọn Thánh tâm chúa Jêsu như là vị bảo hộ của đan viện . Dòng tu được xây dựng và đặt trên Thiên An.

Song song với việc kiến tạo đan viện, các đan sĩ sư huynh và những người giúp việc đã xúc tiến việc trồng thông, đào hồ, lập vườn, biến vùng rừng núi khô cằn này thành một vùng rừng núi trù phú. Trước 1968 lúc đông nhất tu viện có đến 80 tu sĩ, 250 đệ tử và 60 người giúp việc. Ðan viện lập được ba vườn cam ở ba thung lũng hẹp bao quanh hồ Thủy Tiên.

Những vườn cam này được mua giống từ Angerie về, lại được chăm sóc tốt nên trái lớn và rất sai.Ngày trước trên những sọt hoa trái ở chợ Ðông Ba, có những quả cam có đóng dấu T.A chính là giống cam quý từ Ðan viện Thiên An. Hai hồ nước trong Ðan Viện được các cha Romain và Cadet Phạm Quang Ðiện cho đào vào năm 1940 – 1960 đã cung cấp nước cho toàn khu vực và trở thành thắng cảnh đặc biệt là hồ Thủy Tiên và huyền thoại về những giọt nước thủy chung.

huế có gì?

Đồi Thiên An Và Hồ Thủy Tiên – Huế

Ðến thăm Thiên An bạn sẽ bắt gặp những địa danh một thời nằm sâu trong ký ức giới trẻ Huế. Ðó là đồi Ðức Mẹ rợp bóng thông già mà mỗi góc cây vẫn còn in hằn dấu “Yêu” của những đôi tình nhân xứ Huế. Ðó là dốc “Mạ ơi” quanh co khúc khuỷa. Ðó là hình ảnh đôi chân lạc lối vườn cam tìm đến lăng Ba Vành nơi mà lịch sử vẫn tàng ẩn một nghi vấn. Phải chăng đó là lăng mộ vua Quang Trung Bạn sẽ bắt gặp từng đôi trai gái khóac nhau đi dưới gốc thông già để nhặt đi tìm quả rụng như nhặt tìm kỷ niệm của thời yêu nhau. Bạn sẽ nghe chuông nhà thờ văng vẳng gọi lòng người hướng thiện tâm về với chúa dẫu cánh cửa dòng tu vẫn khép kín và bên bờ hồ Thủy Tiên xanh ngắt là những vũ hội sôi động của đám học trò…

Có lẽ vì thế mà Thiên An đã có nguồn cảm hứng, để nữ thi sĩ học trò Hồ Huê viết lên những vần thơ dễ thương nhất của một thời áo trắng.

Không hiểu sao trời hôm ấy mênh mông
Cánh én vẫy tôi ngỡ chừng vô định
Gió luồn qua gốc cây vẳng tiếng chuông thành kính
Tiếng chuông và gió trốn tìm nhau

……….

Chiều Thiên An rất mơ dù rất thực
Ðể đêm về tôi gọi mớ Thiên An.

Sông Hương – Huế

Huế không chỉ gắn với vẻ đẹp cổ kính của những đền chùa, thành quách, lăng tẩm… mà còn nổi tiếng với dòng sông Hương thơ mộng. Cùng với Núi Ngự, sông Hương chính là “hồn cốt”, là “tinh thần” của xứ Huế.

huế có gì?

Sông Hương – Huế

Sông Hương có hai ngọn nguồn. Nguồn tả trạch xuất phát từ dãy núi Trường Sơn chảy về hướng Tây Bắc qua 55 ngọn thác hùng vĩ, rồi từ từ chảy qua ngã ba Bằng Lãng; nguồn Hữu Trạch ngắn hơn sau khi vượt 14 ngọn thác hiểm trở và qua bến đò Tuần thì đến ngã ba Bằng Lãng hợp dòng với Tả Trạch thành sông Hương thơ mộng.

Sông Hương dài 30 km nếu chỉ kể từ Bằng Lãng đến cửa Thuận An, độ dốc của dòng nước so với mặt biển không chênh lệch nhiều nên nước sông chảy chậm. Sắc nước sông Hương trở nên xanh hơn khi vượt qua chân núi Ngọc Trản – điện Hòn Chén, tạo nên một lòng vực sâu thẳm.

Sông Hương đẹp từ nguồn, uốn lượn quanh co giữa núi rừng, đồi cây mang theo những mùi vị hương thơm của thảo mộc rừng nhiệt đới. Dòng sông chầm chậm lướt qua các làng mạc xanh tươi, rợp bóng cây của Kim Long, Nguyệt Biều, Vĩ Dạ, Ðông Ba, Gia Hội, Chợ Dinh, Nam Phổ, Bao Vinh, quyện theo mùi thơm của các loài hoa xứ Huế. Dòng sông xanh trong vắt lung linh như ngọc bích dưới ánh mặt trời, những con thuyền Huế xuôi ngược, dọc ngang với điệu hò man mác, trầm tư, sâu lắng giữa đêm khuya. Ði chơi bằng thuyền để được ngắm cảnh Hương giang thơ mộng, nghe những điệu hò, dân ca xứ Huế lúc trời đêm thanh vắng là thú vui muôn thuở của bao lớp du khách….

Quang cảnh đôi bờ sông nào thành quách, phố xá, vườn cây, chùa tháp…bóng lồng mặt nước phản chiếu lung linh làm cho dòng sông đã yêu kiều càng nên thơ nên nhạc. Nhiều người nghĩ rằng sở dĩ Huế có được cái êm đềm, dịu dàng, yên tĩnh phần lớn là nhờ sông Hương – dòng sông xanh đã đem lại cho thành phố cái chất thơ trầm lắng, cái trong sáng hài hoà toả ra từ vùng đất có chiều sâu văn hiến.

Chùa Thiên Mụ – Huế

Tên của ngôi chùa bắt nguồn từ một huyền thoại. Chuyện kể rằng từ xa xưa, dân địa phương đêm đêm thường thấy một bà già mặc áo đỏ, quần lục xuất hiện trên ngọn đồi nơi chùa toạ lạc ngày nay, và nói: rồi sẽ có chân chúa đến lập chùa ở đây để tụ khí cho bền long mạch. Hễ nói xong là bà biến mất. Sau khi vào trấn Thuận Hoá, chúa Nguyễn Hoàng một lần đi qua, nghe kể chuyện đã cho xây chùa và đặt tên là Thiên Mụ Tự. Chùa nằm cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5 km, trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, xã Hương Long.

huế có gì?

Chùa Thiên Mụ – Huế

Năm 1601 chùa được xây dựng. Năm 1665 chúa Nguyễn Phúc Tần cho trùng tu. Năm 1710, chúa Nguyễn Phúc Chu cho đúc quả đại hồng chung cao 2,5m nặng 3285 kg, và năm 1715, chúa lại cho xây dựng tấm bia cao 2,58m đặt trên lưng con rùa bằng cẩm thạch. Vào thời Nguyễn, các vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Thành Thái đều cho trùng tu chùa. Tháp Phước Duyên (ban đầu được đặt tên là tháp Từ Nhân) được vua Thiệu Trị cho xây vào năm 1844. Tháp hình bát giác cao 7 tầng (21 m). Ðiện Ðại Hùng là ngôi chính điện trong chùa, một công trình kiến trúc đồ sộ nguy nga. Trong điện, ngoài những tượng phật bằng đồng sáng chói còn treo một khánh đồng được đúc năm 1677 và một bức hoành phi bằng gỗ sơn son thếp vàng do tự tay chúa Nguyễn Phúc Chu đề tặng năm 1714. Hai bên chùa có nhà trai, nơi các sư tĩnh dưỡng và nhà khách để đón khách đến vãn cảnh chùa.

Trước các điện, quanh chùa là các vườn hoa cây cảnh xanh tươi, rực rỡ. Phía sau cùng là vườn thông tĩnh mịch, phong cảnh nên thơ. Chùa bị hư hỏng nặng năm 1943. Từ năm 1945, Hoà thượng Thích Ðôn Hậu đã tổ chức công cuộc đại trùng tu kéo dài hơn 30 năm. Ngày nay chùa  Thiên Mụ vẫn được tiếp tục chỉnh trang ngày càng huy hoàng, tráng lệ, luôn hấp dẫn và thu hút đông đảo du khách gần xa.

Chùa Từ Ðàm – Huế

Chùa Từ Đàm tọa lạc ở phường Trường An, cách thành phố Huế khoảng 2 km về hướng Nam. Cấu trúc chung của chùa được gọi là “kiểu chùa Hội” phối hợp giữa đường nét nghệ thuật kiến trúc mới và cũ, với yêu cầu rộng rãi, cao ráo, cổ kính nhưng đơn giản, Chùa Từ Ðàm có ba bộ phận quan trọng là tam quan, chùa chính và nhà Hội.

huế có gì?

Chùa Từ Ðàm – Huế

Cổng tam quan chùa cao, rộng, có mái ngói thanh nhã. Phía sau cổng có cây Bồ Ðề nơi Phật đắc đạo, do bà Karpeies, Hội trường hội phật học Pháp, Thỉnh từ Ấn độ qua Việt Nam tặng, được trồng vào năm 1936. Sân chùa rộng, bằng phẳng, thoáng mát, đủ chỗ để tập trung hàng ngàn người về dự lễ.

Chùa chính gồm tiền đường, chính điện và nhà Tổ. Tiền đường được xây trên một nền móng bằng đá hoa cương, cao 1,5 m, mái xây kiểu cổ lầu nên chùa vốn đã cao lại càng cao hơn. ở các bờ mái và trên nóc chùa là những cặp rồng uốn cong, mềm mại đối xứng nổi lên trên những dẫy ngói âm dương chạy dọc trông cân đối, hài hòa, đẹp mắt.

Dưới mái cổ lầu có những bức đắp nỗi sự tích đức phật, bố cục trọn vẹn trên các khung đúc. Dọc theo các trụ cột tiền đường là các bức nối dài, nét chữ sắc sảo. Tả, hữu sát với tiền đường có hai lầu chuông, trống.

Trong điện có pho tượng Ðức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni ngồi trên tòa sen. Chùa Từ Ðàm thờ độc tôn, cách bố trí và thờ tự trong điện có phần đơn giản so với các ngôi chùa ở Huế. Phiá sau chính điện có nhà tổ, nhà tăng.
Từ Ðàm là ngôi chùa Hội cho nên Hội quán được xây dựng rộng 10m, cao hai tầng, cạnh đường Phan Bội Châu.

Mặc dầu không phải là ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, nhưng Từ Ðàm được nhiều người khắp đất nước biết đến do vai trò quan trọng của chùa trong công cuộc chấn hưng, phát triển của Phật Giáo Việt Nam thời kỳ cận đại và cuộc đấu tranh vì hòa bình, tự do tín ngưỡng.

Biển Lăng Cô – Huế

Lăng Cô là một danh lam thắng cảnh thiên nhiên của tỉnh Huế. Bãi biển Lăng Cô từ lâu đã nổi tiếng là một bãi biển có các điều kiện tự nhiên và phong cảnh vào loại đẹp nhất ở Việt Nam với bãi cát trắng dài tới hơn 10 km, làn nước biển trong xanh bao la tuyệt đẹp. Bên cạnh đó là những cánh rừng nhiệt đới rộng lớn trên những dãy núi nhấp nhô, nằm giữa núi rừng và biển là đầm Lập An rộng lớn (800 ha) đầy huyền bí.

huế có gì?

Biển Lăng Cô – Huế

Địa danh “Lăng Cô” có người cho rằng là do người Pháp đọc trại tên “An Cư”, vốn là làng chài ở phía nam đầm. Cũng có người cho rằng lúc trước ở Lăng Cô có nhiều đàn cò, nên được gọi là Làng Cò, sau đó được dân địa phương đọc trại lại là Lăng Cô.

Lăng Cô có vị trí địa lý nằm giữa 3 trung tâm Bảo tồn Di sản Văn hóa Thế giới là: Cố đô Huế, Khu phố cổ Hội An và Khu Thánh địa Mỹ Sơn với bán kính là 70 km. Lăng Cô có thể thu hút khách tham quan, nghiên cứu tại các trung tâm trên và giải tỏa áp lực những thời điểm đông khách.

Lăng Cô nằm trên tuyến du lịch Bắc-Nam cách thành phố Đà Nẵng 30 km và thành phố Huế 70 km, có thể hỗ trợ phát triển các loại hình du lịch đa dạng cho 2 trung tâm du lịch quốc gia trên và tăng ngày nghỉ của khách dừng chân tại Lăng Cô, như các du khách thường nói: “Lên non gặp Người Hùng Bạch Mã, xuống biển gặp Người Đẹp Lăng Cô”.

Lăng Cô được định hướng phát triển gắn kết lâu dài với cảng nước sâu, khu công nghiệp và thương mại quốc tế Chân Mây, đô thị Chân Mây, bảo đảm cân bằng toàn diện các chức năng nghỉ ngơi, sinh sống và làm việc của một đô thị lớn.

Lăng Cô là nơi tập trung nhiều tài nguyên du lịch phong phú: bờ biển, bãi cát mịn, đầm hồ, sông suối, núi đồi, bên đèo Hải Vân, gần rừng nguyên sinh Bạch Mã và các di tích lịch sử.v.v. sẽ tạo ra các sản phẩm du lịch đa dạng nhất thỏa mãn các loại hình du lịch.

Lăng Cô được công nhận là vịnh đẹp thế giới. Ngày 6 tháng 6 năm 2009, UBND tỉnh Huế tổ chức đón nhận danh hiệu “Lăng Cô – vịnh đẹp thế giới” do Câu lạc bộ các vịnh biển đẹp nhất thế giới (Worldbays) bình chọn.

Ðiện Hòn Chén – Huế

Ngự trên núi Ngọc Trản, ở ngay trên bờ Bắc sông Hương, thuộc huyện Hương Trà. Từ thời Gia Long, điện này là một kiến trúc đa thần nổi tiếng, chủ yếu thờ phụng theo Đạo giáo. Năm 1832, điện được trùng tu sửa chữa. Dưới thời Đồng Khánh (1886- 1888), lại được sửa chữa lớn và đổi tên là điện Huệ Nam. Điện Hòn Chén còn lưu giữ khá nhiều các đồ tế khí khá quý giá thời Nguyễn, niên hiệu chủ yếu thời Đồng Khánh. Có khoảng 664 hiện vật thuộc 284 chủng loại.

huế có gì?

Ðiện Hòn Chén – Huế

Điện Hòn Chén là cụm di tích có hơn 10 công trình kiến trúc thuộc về năm 1886, nằm trên núi Ngọc Trản soi bóng bên dòng sông Hương. Kiến trúc chính của điện là Minh Kính Đài, tọa lạc ở giữa kích thước 15m x 17m. Bên phải là nhà Quan Cư, Trinh Cát Viện và chùa Thánh. Bên trái là dinh Ngũ Hành, động thờ ông Hổ, bàn thờ các quan, anh Ngoại Cảnh. Sát bờ sông còn có am Thủy Phủ v.v..

Minh Kính Đài là ngôi điện chính trong điện cũng là công trình có ý nghĩa nhất. Hiện nay, Minh Kính Đài là nơi tổ chức lễ hội tín ngưỡng thờ Mẫu được khai hội vào tháng 2 và tháng 7 âm lịch hàng năm. Minh Kính Đài chia làm 3 cung, theo thứ tự từ cao xuống thấp.

Minh Kính cao đài đệ nhất cung (Thượng điện) hai tầng thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu, Thánh mẫu Vân Hương, vua Đồng Khánh và một số vị thần khác, dưới là nơi ở của Thủ từ;

Minh Kính cao đài đệ nhị cung (cung Hội đồng) thờ hàng chục tượng thần thánh khác nhau, là nơi bày biện các đồ thờ cúng để rước sắc trong những dịp lễ lớn.

Minh Kính cao đài đệ tam cung (tiền điện) nơi hành lễ là nơi cử hành lễ cũng là nơi người dân địa phương và du khách thập phương dâng hương cúng bái.

huế có gì?

Ðiện Hòn Chén – Huế

Điện Hòn Chén gắn liền với đời sống tâm linh của người dân xứ Huế từ bao đời nay. Đây cũng là ngôi điện duy nhất ở Huế có sự kết hợp độc đáo giữa nghi thức cung đình và tín ngưỡng dân gian. Đến với điện Hòn Chén du khách sẽ có dịp chiêm ngưỡng một nét kiến trúc cổ kính bên dòng sông Hương. Đồng thời tìm hiểu về tôn giáo, lịch sử, văn hóa và con người xứ Huế.

Bãi biển Thuận An – Huế

Bãi biển Thuận An thuộc thị trấn Thuận An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên – Huế, biển nằm ngay bên cạnh cửa biển Thuận An. Đây chính là nơi sông Hương xuôi dòng hướng phá Tam Giang rồi đổ ra biển Đông, hòa cùng đại dương mênh mang. Do vậy mà bãi biển Thuận An mang một vẻ đẹp riêng giữa ánh sắc của dòng sông hiền hòa và biển cả rộng lớn. Chẳng thế mà nhà vua Thiệu Trị đã xếp bãi biển Thuận An là danh thắng thứ 10 trong Thần kinh nhị thập cảnh.

huế có gì?

Bãi biển Thuận An – Huế

Một trong những điều đặc biệt làm cho bãi biển Thuận An mê mẩn du khách đó chính là cảnh sắc bồng bềnh thay đổi theo từng mùa, do chịu ảnh hưởng của khí hậu. Ấy thế nên, dù có trở lại thêm nhiều lần nữa thì bãi biển miền Trung này vẫn đủ sức hấp dẫn bất kỳ bước chân ai.

Có nhiều cách để khách du lịch Huế xuôi về bãi biển Thuận An. Nếu là người mơ mộng muốn ngắm nhìn khung cảnh miền đất cổ thanh bình thì nên chọn đường bộ. Cung đường đẹp, dễ đi với cảnh quan hai bên tựa như một bộ phim quay chậm. Du khách sẽ được nhìn thấy một làng quê dung dị và trù phú ngợp màu xanh của cỏ cây, của lúa, của ruộng vườn sum sê. Còn nếu là người thích ngồi trên thuyền, để lướt êm trên mặt nước êm và thi thoảng nghe tiếng sóng nhẹ vỗ vào hai bên mạn thì hãy xuôi theo dòng sông Hương. Chắc chắn bức tranh non nước hữu tình ở phía cuối con sông sẽ làm bạn trái tim người lữ hành xốn xang nhiều cung bậc cảm xúc.

Đến với bãi biển Thuận An, không chỉ có ngắm cảnh, vui đùa tắm mát mà khách du lịch Huế còn có cơ hội khám phá làng chài, để chiêm nghiệm nhiều hơn những điều mới mẻ. Những chiếc thuyền đánh cá mưu sinh như nhỏ bé trước đại dương bao la, giống hệt như phận đời lênh đênh của người làng chài, thế nhưng ai cũng mến, cũng thương, quyết không bỏ cái nghiệp mà cha ông đã để lại.

Miếu Thái Dương ở Thuận An – chốn tâm linh được dân làng sùng kính dành riêng cho những ai có sở thích đặc biệt muốn hiểu sâu hơn về làng chài và sự tích xa xưa. Thành cổ Trấn Hải gần đó cũng là điểm đến thú vị trong chuyến đi kết hợp của du khách tìm về Thuận An.

Hồ Tịnh Tâm – Huế

Hồ Tịnh Tâm là một trong những cảnh nổi tiếng nhất của đất Kinh thành, nay thuộc địa phận phường Thuận Thành, Thành phố Huế. Nguyên xưa, hồ là một đoạn sông Kim Long được cải tạo lại, tên ban đầu là ao Ký Tế. Năm Minh Mạng thứ 3 (1822), triều Nguyễn đã huy động tới 8000 binh lính tham gia vào việc cải tạo hồ, biến nó trở thành một Ngự Uyển của Hoàng gia. Sau khi hoàn thành, hồ mang tên mới là Tịnh Tâm.

huế có gì?

Hồ Tịnh Tâm – Huế

Hồ Tịnh Tâm có bình diện hình chữ nhật, chu vi gần 1500m (354 trượng 6 thước). Trên hồ có ba hòn đảo Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu, đều là những trung tâm điểm của các kiến trúc trong hồ. Đảo Bồng Lai, ở phía nam hồ, chính giữa có điện Bồng Doanh, 3 gian 2 chái, mái trùng diêm, lợp ngói Hoàng lưu li. Điện xây mặt về hướng nam, có lan can gạch bao quanh, phía trước lại có cửa Bồng Doanh, rồi cầu Bồng Doanh nối đảo với bờ hồ phía nam. Phía đông điện Bồng Doanh có nhà Thủy tạ Thanh Tâm, quay mặt về hướng đông. Phía tây điện có lầu Trừng Luyện, quay mặt về hướng tây. Phía bắc là cửa Hồng Cừ và một chiếc cầu cùng tên.

Trên đảo Phương Trượng, chính giữa có gác Nam Huân, quay mặt về hướng nam, 2 tầng, mái lợp ngói hoàng lưu li. Phía nam có cửa Bích tảo và cầu Bích tảo. Phía bắc đảo có lầu Tịnh tâm, xây mặt hướng bắc. Phía đông có nhà Hạo Nhiên (từ năm 1848 đổi thành Thiên Nhiên), quay mặt về hướng đông. Phía tây có hiên Dưỡng Tính quay mặt về hướng tây. Giữa hai đảo có đình Tứ Đạt nằm giữa một hệ thống hành lang mái lợp ngói gồm 44 gian, chạy nối vào cầu Bích Tảo ở phía nam và cầu Hồng Cừ ở phía bắc.

Giữa hồ Tịnh tâm có đê Kim Oanh nối liền từ bờ đông qua bờ tây. Phía đông đê có cầu Lục Liễu, 3 gian, mái lợp ngói. Phía nam, đê gắn với một hành lang dài 56 gian, ở giữa là cầu Bạch Tần. Phía nam cầu có nhà tạ Thanh Tước để thuyền vua ngự. ở đoạn cuối phía tây của hành lang lại có nhà Khúc Tạ, thông với một nhà tạ khác, là Khúc Tạ Hà Phong qua một hành lang nhỏ dựng trên mặt nước. Phía nam nhà tạ này là đảo Doanh Châu.

Trên các góc của đảo Bồng Lai, Phương Trượng đều có xếp đá tạo các giả sơn. Riêng đảo Doanh Châu được tạo dáng như một hòn non bộ lớn nổi trên mặt hồ. Khắp nơi chung quanh đảo Bồng lai, Phương Trượng, đê Kim Oanh và dọc bờ hồ đều trồng các loại liễu trúc và các thứ hoa cỏ lạ. Dưới hồ chỉ trồng duy nhất loại sen trắng.

huế có gì?

Hồ Tịnh Tâm – Huế

Hồ Tịnh Tâm được ngăn cách với bên ngoài bằng một vòng tường gạch xây khá cao. Ở bốn mặt trổ bốn cửa: Hạ Huân ở phía nam, Đông Hy ở phía bắc, Xuân Quang ở phía đông và Thu Nguyệt ở phía tây…

Với kiểu kiến trúc cầu kỳ, tinh mỹ nhưng hết sức hài hòa với tự nhiên, hồ Tịnh Tâm được xem là một thành tựu tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc cảnh quan Việt Nam thế kỷ XIX. Cảnh đẹp của hồ đã tạo nguồn thi hứng và trở thành đề tài cho nhiều bài thơ, chùm thơ nổi tiếng của các vua Nguyễn như Minh mạng, Thiệu Trị, Tự Đức… Nổi bật hơn cả vẫn là bài Tịnh Hồ Hạ Hứng, nằm trong chùm thơ ca ngợi 20 cảnh đẹp đất Thần Kinh của vua Thiệu Trị. Đương thời, bài thơ này cùng với phong cảnh hồ Tịnh tâm được vẽ vào tranh gương để treo ở các cung điện.

Từ cuối thế kỷ XIX, do thiếu điều kiện chăm sóc, các kiến trúc ở khu vực hồ Tịnh Tâm bị hư hỏng dần hoặc bị triệt giải. Năm 1946, vòng tường gạch bao quanh hồ bị phá để xây dựng một vòng tường thấp hơn. Năm 1960, trên nền điện Bồng Doanh cũ có dựng một ngôi đình bát giác nhỏ để kỷ niệm. Trong lầu tu bổ này một cây cầu bê tông đã được xây dựng để nối đảo Bồng Lai với đê Kim Oanh…

Ngày nay, hồ Tịnh Tâm vẫn ở trong trạng thái phế tích. Tuy nhiên dự án phục hồi khu vườn Thượng Uyển có thắng cảnh thần tiên này đang được bộ Văn hóa – Thông tin và lãnh đạo tỉnh Huế đặc biệt quan tâm.

Kinh thành – Huế

Kinh thành Huế được xây dựng gần 30 năm (từ 1803 đến 1832), là một dãy thành lũy dài cao 6,60m, dày 21m, với chu vi gần 9.000m. Trên mặt thành ngày xưa có tới 24 pháo đài.Bên ngoài, dọc theo bờ thành có hào sâu bảo vệ. Kinh thành liên lạc với bên ngoài qua 8 cửa trổ theo 8 hướng: Chính Ðông, Chính Tây, Chính Nam, Chính Bắc, Tây Bắc, Tây Nam, Ðông Bắc, Ðông Nam. Ngoài ra hai bên Kỳ Ðài còn có hai cửa Thể Nhơn và Quảng Ðức. Ngoài ra còn có hai cửa bằng đường thủy ở hai đầu sông Ngự Hà là Ðông Thành Thủy Quan và Tây Thành Thủy Quan. Phía Hoàng Thành ở góc đông bắc có một thành nhỏ, thời Gia Long gọi là Thái Bình, đến thời Minh Mạng đổi thành Trấn Bình Ðài có chu vi gần 1km, bên ngoài có hào rộng ăn thông với hào của Hoàng Thành.

huế có gì?

Kinh thành – Huế

Theo nguyên tắc địa lý phong thủy của Ðông Phương và thuyết âm dương-ngũ hành của Dịch học. Kinh thành quay mặt về hướng Nam, dùng núi Ngự Bình làm tiền án và dùng 2 hòn đảo nhỏ trên sông Hương (Cồn Hến – Cồn Dã Viên) làm rồng chầu hổ phục (Tả Thanh Long – Hữu Bạch Hổ) để bảo vệ đế đô. Dòng Sông Hương chảy ngang trước mặt dùng làm Minh Ðường. Bốn mặt kinh thành đều được bao bọc bởi hệ thống sông ngòi gọi là sông Hộ Thành.

Ở trong lòng Kinh thành, Hoàng thành và Tử cấm thành được gọi chung là Ðại Nội. Hoàng Thành dùng để bảo vệ khu vực các cơ quan lễ nghi, chính trị quan trọng nhất của triều đình và các điện thờ. Tử Cấm thành bảo vệ nơi làm việc, ăn ở và sinh họat hàng ngày của nhà vua và gia đình..

Ðược xây dựng từ 1804-1833, Ðại Nội có mặt bằng xây dựng theo hình gần vuông, mặt trước và mặt sau dài 622m, mặt trái và phải 604m. Thành xung quanh xây bằng gạch (cao 4,16m, dày 1,04m), bên ngoài có hệ thống hộ thành hào, gọi là Kim Thủy Hồ, để bảo vệ thành. Mỗi mặt trổ một cửa để ra vào: Ngọ Môn (trước), Hòa Bình (sau), Hiển Nhơn (trái), Chương Ðức (phải). Cửa chính của Ngọ Môn chỉ dành cho vua đi.

Với hơn 100 công trình kiến trúc đẹp, mặt bằng Ðại Nội chia thành nhiều khu vực khác nhau:

  • Từ Ngọ Môn đến Ðiện Thái Hòa làm nơi cử hành các lễ lớn của triều đình.
  • Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu và Ðiện Phụng Tiên là nơi thờ các vua chúa nhà Nguyễn.
  • Cung Diên Thọ và Cung Trường Sanh là nơi ở của Hoàng Thái Hậu và Thái Hoàng Thái Hậu.
  • Phủ Nội Vụ là nhà kho tàng trữ đồ quý, xưởng chế tạo đồ dùng hoàng gia.
  • Vườn Cơ Hạ và Ðiện Khâm Văn là nơi các Hoàng tử học tập và chơi đùa.

Tử Cấm Thành – Huế

Tử Cấm Thành có mặt bằng cũng gần vuông, cao 3,7m, mặt trước và sau dài 324m; mặt trái và phải dài 290m. Quanh thành trổ 10 cửa. Ðại Cung Môn là cửa chính ở mặt tiền chỉ dành cho vua ra vào, hiện nay đã hư hại hòan toàn. Bức bình phong to rộng dăng ngang sau lưng đIện Cần Chánh (nơi vua làm việc hàng ngày) là dấu hiệu cho biết thế giới sau đó chỉ dành riêng cho vua và gia đình. Trong đó có hàng trăm cung nữ và hàng chục thái giám thường trú để phục vụ hoàng gia. Trong khu vực này có gần 50 công trình kiến trúc vàng son lộng lẫy bao gồm: điện Càn Thành (nơi vua ở), điện Khôn Thái (nơi vợ chính vua ở), Duyệt Thị Ðường (nhà hát), Thượng Thiện (nơi nấu ăn cho vua), Thái Bình Lâu (nơi vua đọc sách),.điện Quang Minh (nơi ở các hòang tử), điện Trinh Minh (nơi các hòang hậu ở), điện Kiến trung, vườn Cẩm Uyển…

huế có gì?

Tử Cấm Thành – Huế

Hệ thống kiến trúc ở Ðại Nội đã được hoạch định theo những nguyên tắc chặt chẽ, đăng đối: chia ra các vị trí tiền, hậu, tả, hữu, thượng, hạ, chiêu mục tất cả đều nhất quán. Nó thể hiện những khái niệm về triết lý chính trị Nho giáo phương đông. Phần lớn các công trình kiến trúc ở đây đều làm bằng gỗ quý , nhưng cũng không chịu đựng nổi với thiên tai, khí hậu khắc nghiệt hàng thế kỷ qua và các cuộc chiến tranh tàn phá nặng nề. Cho nên một số công trình đã bị hư hỏng, các di tích quý này hiện nay đang được Nhà nước quan tâm đầu tư kinh phí để phục hồi, tôn tạo lại từng bước.

Ngọ Môn – Huế

Vừa là cổng chính, vừa là bộ mặt Ðại Nội, được xây dựng vào năm 1833 khi Minh Mạng cho quy hoạch lại mặt bằng và hoàn chỉnh hóa tổng thể kiến trúc trong Ðại Nội. Ngọ Môn là một tổng thế kiến trúc đa dạng, phía trên là lầu Ngũ Phụng với chức năng như một lễ đài, dùng để tổ chức một số lễ nghi trọng thể như duyệt binh, lễ xướng tên những người thi đỗ tiến sĩ, lễ ban sóc hàng năm và đây cũng là nơi diễn ra lễ thoái vị của vua Bảo Ðại – vị vua cuối cùng của Việt Nam vào ngày 30/8/1945.

huế có gì?

Ngọ Môn – Huế

Theo kinh dịch thì các vị vua bao giờ cũng quay mặt về hướng Nam để cai trị thiên hạ, cho nên ngay từ thời Gia Long (1802-1819), khi xây dựng kinh đô Huế, các nhà kiến trúc đã cho hệ thống thành quách và cung điện ở vào vị thế tọa càn hướng tốn (Tây Bắc – Ðông Nam) cũng có nghĩa là hướng Bắc – Nam, thuộc Ngọ trên trục Tý – Ngọ, do đó Minh Mạng đã đặt tên cho chiếc cổng mới xây ở chính giữa mặt trước hoàng thành là Ngọ Môn, thay cho tên cũ là Nam Khuyết đài.

Hệ thống nền đài cao gần 5m, xây trên mặt bằng chữ U vuông góc, đáy dài 57,77m và cánh 27,06m. Ở phần giữa của nền đài trổ ba lối đi. Ngọ Môn dành cho vua đi, Tả và Hữu Giáp Môn dành cho các quan văn võ theo hầu trong đoàn ngự đạo. Tả và Hữu Dịch môn nằm ở hai cánh của nền đài, dành cho lính tráng và voi ngựa đi. Hệ thống lầu ngũ phụng có hai tầng, lầu gồm chín bộ mái lợp ngói hoàng lưu ly và thanh lưu ly, lầu dựng trên nền cao 1,14m xây trên nền đài. Ở tầng trên, mái lầu chia ra thành 9 bộ khác nhau. Tổng thể Ngọ Môn nhìn từ xa như một tòa lâu đài đồ sộ nguy nga, nhưng khi tiếp cận, nó trở thành một công trình kiến trúc xinh xắn, đáng yêu, gần gũi với phong cảnh thiên nhiên và tâm hồn, tình cảm của con người xứ Huế.

Điện Thái Hoà – Huế

Trong phạm vị hoàng cung triều Nguyễn, Ðiện Thái Hòa là công trình kiến trúc quan trọng nhất xét về nhiều mặt: chức năng, vị trí, ý nghĩa lịch sử, giá trị văn hóa nghệ thuật. Ðiện Thái Hòa là địa điểm sinh hoạt quan trọng nhất của triều đình nhà Nguyễn. Ðây là nơi diễn ra các lễ đại triều hàng tháng (vào ngày 1 và 15 âm lịch) hoặc các đại lễ khác như lễ Ðăng Quang (vua lên ngôi), lễ Vạn Thọ (sinh nhật vua), lễ Hưng Quốc Khánh Niệm… với sự tham gia của vua, hoàng thân, quốc thích và các vị đại thần. Về lịch sử xây dựng ngôi điện này, có thể chia làm ba thời kỳ chính, trong mỗi thời kỳ đều có một số thay đổi, cải tiến về kiến trúc trang trí…

huế có gì?

Điện Thái Hoà – Huế

Thời Gia Long Ðiện Thái Hòa được khởi công xây dựng vào 21/2/1805 và hoàn thành vào tháng 10/1805. Thời Minh Mạng, vào tháng Giêng năm Quý Tỵ, tức tháng 3/1833, khi tái quy hoạch và hoàn chỉnh hóa hệ thống kiến trúc cung đình Ðại Nội, vua Minh Mạng đã cho dời điện Thái Hòa hơi dé về phía Nam, đồ sộ và rộng lớn. Thời Khải Ðịnh, năm 1923, vua Khải Ðịnh cho đại tu điện Thái Hòa để chuẩn bị cho lễ Tứ tuần đại khánh tiết. Trong đợt tu sửa lớn này, có một số bộ phận kiến trúc ngôi điện này được thay đổi và làm mới. Trên mái điện, người ta đắp nổi 9 con rồng với một nghệ thuật cực kỳ tinh xảo. Cuối gian giữa của chính điện là ngai vàng được chạm khắc công phu, phía trên là bửu tán được trang trí cực kỳ lộng lẫy. Tám mươi cây cột gỗ lim khá lớn đều vẽ hình rồng vờn mây, màu vàng son rực rỡ.

Qua kiến trúc và trang trí của Ðiện Thái Hòa, chúng ta thấy người xưa đã gửi gắm vào đó khá nhiều ý tứ sâu xa đượm màu sắc đạo lý truyền thống phương Ðông. Bên cạnh ngôn ngữ kiến trúc mang tính triết học, tòa cung điện này còn ghi lại nhiều ngôn ngữ văn học với 297 ô hộc khắc chạm và đúc nổi thơ chữ Hán, nói lên một trong những nét đặc sắc của văn hóa Phú Xuân đầu thế kỷ XIX. Phía trước Ðiện Thái Hoà là sân Ðại Triều, hồ Thái Dịch và cầu Trung Ðạo. Sân Ðại triều chia làm 3 tầng, là nơi dành cho các quan từ nhất phẩm đến cửu phẩm sắp hàng làm lễ. thứ tự các quan được đánh dấu bởi hai hàng phẩm sơn (bia đá nhỏ) dựng ở hai bên sân.

Ðiện Thái Hòa là một trong những tòa cung điện tiêu biểu được xây dựng khá sớm ở Huế (1805), mang phong cách độc đáo của địa phương, cũng là cung điện rộng lớn, uy nghi, tráng lệ nhất trong hệ thống kiến trúc cung đình còn lại ở Huế.

Cửu Đỉnh – Huế

Ðặt tại sân Thế Miếu, là sản phẩm độc đáo, tinh xảo, được Bộ Công đúc tại Huế từ cuối năm 1835-đầu 1837. Cửu Ðỉnh biểu hiện ước mơ về sự trường tồn mãi mãi của triều đinh nhà Nguyễn và sự giàu đẹp của đất nước. Ðiều đó được thể hiện rất rõ trong việc đặt tên gọi cũng như tầm vóc và các hoa văn chạm nổi trên Cửu Ðỉnh. Mỗi đỉnh có khắc một tên riêng bằng chữ Hán, lấy từ miếu hiệu (tên để thờ cúng) của một vị vua nhà Nguyễn. Và cái đỉnh đó được xem là biểu tượng của vị vua đó. Cao Ðỉnh (vua Gia Long) ở vị trí chính giữa, Ðỉnh hai bên trái phải lần lượt là: Nhân Ðỉnh (vua Minh Mạng), Chương Ðỉnh ( vua Thiệu Trị), Anh Ðỉnh (vua Tự Ðức), Nghị Ðỉnh (vua Kiến Phúc), Thuần Ðỉnh (vua Ðồng Khánh), Tuyên Ðỉnh (vua Khải Ðịnh), Dụ Ðỉnh, Huyền Ðỉnh (chưa tượng trưng cho ông vua nào cả, mặc dù triều Nguyễn còn có 6 vị vua khác).

huế có gì?

Cửu Đỉnh – Huế

Giá trị của 9 Ðỉnh trước hết ở tầm vóc to lớn và trình độ đúc đồng tinh xảo của các nghệ nhân đúc đồng Huế. Cao Ðỉnh cao 2,5m, nặng 2601kg-là đỉnh cao và nặng nhất. Huyền Ðỉnh cao 2,31m, nặng 1935kg – là đỉnh thấp và nhẹ nhất. Quanh hông đỉnh đều chạm trỗ 17 cảnh vật. Như vậy có tới 153 cảnh vật được chạm nổi trên Cửu Ðỉnh. Ðó là các hình ảnh: núi, sông, trăng, sao, cây cối, hoa, súc vật, vũ khí, xe, thuyền…Có thể xem 153 bức chạm khắc ấy là 153 bức tranh. Ta sẽ thấy sông Hồng trên Tuyên Ðỉnh, sông Cửu Long trên Huyền Ðỉnh, sông Hương trên Nhân Ðỉnh. Chín đỉnh được sắp thành một hàng ngang dưới thềm Hiển Lâm Các, nằm theo thứ tự các án thờ trong Thế Miếu. Riêng Cao Ðỉnh được đặt nhích về phía trước 8 đỉnh kia một khoảng gần 3m, vì vua Minh Mạng cho rằng Gia Long là vị vua có công lớn nhất đối với triều đại.

Lăng tẩm các vua triều Nguyễn – Huế

Cách đây 80 năm, một người phương Tây, Ph.Eberhard đã viết: Huế là một trung tâm du lịch hấp dẫn, nơi có kinh thành, hoàng thành và lăng tẩm, có sức cuốn hút sự chú ý đặc biệt đối với du khách và các nhà mỹ thuật. Chỉ riêng lăng tẩm của các vua nhà Nguyễn không thôi cũng đủ có giá trị đối với cuộc du lịch rồi Triều Nguyễn (1802-1945) có đến 13 vua, nhưng vì những lý do lịch sử phức tạp khác nhau, nên hiện nay ở Huế chỉ có 7 khu lăng tẩm do triều đình xây dựng.

huế có gì?

Lăng tẩm các vua triều Nguyễn – Huế

Ðó là các lăng vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Ðức (ở đây còn có lăng mộ vua Kiến Phúc), Dục Ðức (ở đây còn có mộ hai vua Thành Thái, Duy Tân), Ðồng Khánh và Khải Ðịnh. Theo ý đồ quy hoạch kiến trúc kinh đô nhà Nguyễn vào đầu thế kỷ XIX, các khu lăng tẩm ấy nằm trong một vùng khá riêng biệt ở phía Tây Huế.

Kiến trúc cung đình nhà Nguyễn rất tuân thủ các nguyên tắc phong thủy. Lăng tẩm nào cũng phải theo đúng những quy luật liên quan đến các thực thể địa lý thiên nhiên như: sông, núi, ao hồ, khe suối và nhất là huyền cung ở trung tâm điểm của mặt bằng kiến trúc phải tọa lạc đúng long mạch. Bố cục mặt bằng khu lăng tẩm nào cũng chia làm hai phần chính: phần lăng và phần tẩm.

Khu vực lăng là khu vực chôn thi hài nhà vua, khu vực tẩm là chỗ xây nhiều miếu, điện, lầu gác, đình, tạ,… để nhà vua lúc còn sống thỉnh thoảng rời hoàng cung lên đây tiêu khiển. Chính vì vậy, mỗi lăng tẩm Huế, chẳng những là di tích lịch sử văn hóa mà còn là một thắng cảnh, một đóa hoa nghệ thuật kiến trúc giữa chốn núi đồi xứ Huế. Vì lăng tẩm Huế có được những giá trị văn hóa nghệ thuật cao như thế nên ngày từ năm 1957, trong quyển Les Merveilles du Monde được Viện sĩ Hàn lâm Pháp Jean Cocteau đề tựa, một nhóm gồm 15 tác giả phương Tây xếp lăng tẩm các vua nhà Nguyễn vào hàng kỳ quan của thế giới.

Lăng Tự Ðức (Khiêm Lăng) – Huế

huế có gì?

Lăng Tự Ðức (Khiêm Lăng) – Huế

Khiêm Lăng được dựng ở hữu ngạn sông Hương, trên núi Dương Xuân, làng Dương Xuân Thượng (cách Huế chừng 8 km), giữa một rừng thông bát ngát. Khởi công năm 1864, hoàn thành năm 1867, trên khoảng diện tích 475 ha. Toàn bộ lăng được bao quanh bằng một bức tường dày uốn lượn theo địa hình đồi núi. Kiến trúc trong lăng ngoài những yếu tố cần thiết của một lăng còn có những công trình kiến trúc phù hợp với nơi ở của vua Tự Ðức.

Lăng Khải Ðịnh (Ứng Lăng) – Huế

huế có gì?

Lăng Khải Ðịnh (Ứng Lăng) – Huế

Lăng được xây dựng từ 1920 đến 1931, trên đỉnh núi Châu Chữ, cách Huế 10km. Nếu các lăng khác được dựng trên một vùng núi non trập trùng rộng hàng trăm héc ta, thì lăng Khải Ðịnh như một toà lâu đài đồ sộ xây bên triền núi. Từ dưới chân núi lên tới Tẩm điện, qua 109 bậc. Vật liệu xây dựng lăng Khải Ðịnh chủ yếu là sắt thép bê tông và sành sứ. Nét nổi bật trong lăng Khải Ðịnh chính là nghệ thuật khảm sành, sứ trang trí lộng lẫy trên mặt tường, cột nhà và trần nhà. Ðây là sự kết hợp giữa hai nền kiến trúc, văn hoá Ðông – Tây rất tinh xảo.

Hổ quyền – Huế

Được xây dựng vào đầu thế kỷ 19, Hổ Quyền được các nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử đánh giá là công trình “độc nhất vô nhị”, nơi diễn ra những trận tử chiến giữ hổ và voi cho vua, hoàng gia và các quan lại đến xem giải trí.

huế có gì?

Hổ quyền – Huế

Nằm cách trung tâm TP Huế (Thừa Thiên – Huế) chừng 5 km về phía tây, khu di tích Hổ Quyền tọa lạc trên vùng đồi Long Thọ, phường Thủy Biều. Đây được xem là công trình “độc nhất vô nhị” không những ở Việt Nam mà cả ở châu Á.

Trường đấu Hổ Quyền được xây dựng năm 1830, ở bờ Nam sông Hương, cách kinh thành Huế 4 km. Ðây là công trình kiến trúc độc đáo, đồ sộ, kiên cố như một thành trì.Trường đấu gồm hai vòng tường thành hình tròn đồng tâm xây bằng gạch vồ, trát vôi vữa. Tường dày 1.1m ở nền và 0.5m ở đỉnh. Ðường kính của vòng tường ngoài là 45m, chu vi 140m, cao 4,5m. Vòng tường trong có đường kính 35m, chu vi 110m, cao 6m. Hai vòng tường cách nhau 4m ở nền và 3m ở đỉnh.

Từ dưới chân tường có hai cầu thang để đi lên mặt con đường đất. Cầu thang thứ nhất có 20 bậc dành cho vua và hoàng gia. Khán đài là một khu đất hình chữ nhật, diện tích 96m2 cao 1,5m so với mặt đường đất. Từ trên khán đài nhìn xuống người ta thấy khu lòng chảo của trường đấu. Cầu thang thứ hai có 15 bậc dành cho lính và dân xem. Khoảng giữa hai cầu thang là một lối vào rộng 1,9m, cao 3,9m dành cho voi đi vào trường đấu.

Ðối diện với khán đài dành cho vua, ở phía bên kia của đấu trường là 5 chuồng hổ (cọp) và báo. Phía trên chuồng ở chính giữa có một tấm biển bằng đá chạm hai chữ Hán “Hổ Quyền“.

Huế có gì? Bạn đang muốn tìm một nơi để giải tỏa tâm hồn nhưng chưa biết đi đầu thì hãy đến với Huế – chuyến hành trình tại đây hứa hẹn sẽ mang đến cho bạn nhiều trải nghiệm thú vị. Tạm quên những điểm du lịch nổi tiếng trước đó và thử đặt chân đến đây xem sao nhé.

Đăng bởi: Quý Phạm

YOLO! Khám phá các huyện ở Thừa Thiên Huế

ALONGWALKER Singapore: The channel to explore experiences of global youth ALONGWALKER Philippines: The channel to explore experiences of global youth ALONGWALKER Indonesia: Saluran untuk mengeksplorasi pengalaman para pemuda global ALONGWALKER Malaysia: Saluran untuk menjelajahi pengalaman global belia ALONGWALKER Japan: 発見・体験、日本旅行に関する記事 ALONGWALKER Thailand: ช่องทางในการสำรวจประสบการณ์ของเยาวชนระดับโลก