Lễ Hội Quảng Ngãi

Quảng Ngãi có lễ hội gì?

Quảng Ngãi là tỉnh có nền văn hóa lâu đời, có nhiều di tích lịch sử và cách mạng với nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, có núi Ấn, sông Trà, có Cổ Lũy Cô Thôn rợp mát bóng dừa. Quảng Ngãi còn là cái nôi cách mạng đầu tiên ở miền Trung – Trung Bộ, có chiến thắng Ba Gia, Vạn Tường… Các dân tộc anh em sống trên mảnh đất Quảng Ngãi đã bao đời nay vẫn luôn giữ được đời sống văn hóa, phong tục lễ hội. Quảng Ngãi có lễ hội gì? Dưới đây là một số lễ hội truyền thống tại Quảng Ngãi mời bạn cùng tìm hiểu nhé.

Lễ hội Cầu Ngư – Quảng Ngãi

Lễ hội Cầu ngư là một lễ hội dân gian truyền thống của các ngư dân (hay còn gọi là “Lễ ra quân đánh bắt thủy sản”, hoặc “Lễ ra quân nghề cá”) lễ hội thường được tổ chức vào dịp đầu năm mới với ý nghĩa cầu mong cho mùa màng bội thu, yên bình trong cả năm lênh đênh trên biển cả. Đây là lễ thức có khi chỉ riêng của cá nhân, của gia đình, và cũng có khi là của cả cộng đồng. Tiêu biểu cho lễ cầu ngư của cư dân ven biển tỉnh Quảng Ngãi là lễ cầu ngư Sa Huỳnh được tổ chức vào ngày mồng 3 Tết Nguyên đán hàng năm.

quảng ngãi có lễ hội gì?

Lễ hội Cầu Ngư – Quảng Ngãi

Trình thức lễ hội cầu ngư Sa Huỳnh bao gồm các lễ thức như: Tế cáo thần linh khai lạch, lễ ra nghề, và các trò diễn.

Lễ tế cáo: Là lễ thức mà tất cả những ban tế tự của làng và đại diện những chủ thuyền tế cáo ở lăng Ông, miếu Bà (Thiên Y, Thủy Long), miếu Thổ thần, Nghĩa tự và gia tiên để khai lạch ra khơi. Lễ tế cáo chỉ đơn giản là trầm trà hoa quả và diễn ra trong buổi chiều ngày mồng 2 Tết hoặc sáng sớm ngày mồng 3 Tết.

Lễ ra nghề: Vào buổi sáng sớm ngày mồng 3 Tết, tất cả các thuyền trong các vạn, đặc biệt là vạn Thạch Bi, tập trung tại cửa biển, chong đèn kết hoa rực rỡvà bày bàn soạn lễ vật trên thuyền, các loại ngư cụ… Sau khi đại diện chính quyền, hội nghề cá khai mạc và tổng kết nghề đánh bắt hải sản 1 năm cũng như các kế hoạch thực hiện trong năm mới, ông chủ vạn gióng tiếng trống báo hiệu lễ ra nghề được bắt đầu. Chiếc thuyền đầu tiên ra khơi là một chiếc thuyền được ban vạn bầu chọn (không gặp bất trắc gì trong năm cũ, gia đình hòa thuận và chủ thuyền có uy tín…), và sau đó là hàng trăm chiếc thuyền nối tiếp ra khơi. Ra đến cách bờ chừng vài hải lý, các thuyền lại tiếp tục thực hiện nghi thức tế cáo thần linh, và đánh mẻ lưới làm phép đầu tiên. Sau khi vớt mẻ lưới lên thì các thuyền quay lại vào bờ.

Các trò diễn: Khi tất cả các thuyền đã quay lại vào bờ, các trò diễn, như đua thuyền, thi đánh bóng chuyền, thi lắc thúng… mới bắt đầu diễn ra. Có năm trong dịp làm lễ cầu ngư, người dân Sa Huỳnh còn tổ chức hát bội vài ba ngày. Vài ba năm trở lại đây, trong lễ hội cầu ngư Sa Huỳnh, người dân địa phương nơi đây còn tổ chức múa hát bả trạo và hát sắc bùa.

Lễ hội cầu ngư của cư dân các làng chài duyên hải miền Trung nói chung và của cư dân Sa Huỳnh nói riêng, ngoài ý nghĩa cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa biển bội thu, cá mực đầy khoang, đem lại cuộc sống ngày càng no đủ hơn, thì còn thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, tưởng nhớ công đức của các vị tiền hiền, đã có công lập làng, dựng nghề.

Lễ hội Điện Trường Bà – Quảng Ngãi

Từ ngày 25 đến 26/5, Lễ hội Điện Trường Bà ở huyện Trà Bồng (Quảng Ngãi) đã được long trọng tổ chức với sự tham dự của các lãnh đạo huyện Trà Bổng cùng đông đảo người dân và du khách.

quảng ngãi có lễ hội gì?

Lễ hội Điện Trường Bà – Quảng Ngãi

Được biết, Điện Trường Bà là nơi thờ tự chánh Thánh mẫu Thiên YANA – người mẹ xứ sở có công giúp dân khai hoang, mở đất tại huyện Trà Bồng tỉnh Quảng Ngãi. Ngoài ra, Điện còn thờ Đại Càn Quốc gia Nam Hải Tứ vị Thánh nương, Quan Thánh và các vị thiên thần, nhiên thần khác.

Hằng năm, lễ hội Điện Trường Bà được tổ chức nhằm ghi nhớ công ơn của Thánh mẫu Thiên Y A Na, đồng thời bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của tỉnh. Thông qua lễ hội, người dân địa phương và du khách sẽ hiểu biết sâu sắc hơn về ý nghĩa của Điện Trường Bà cũng như nét đặc trưng về văn hóa, con người và mảnh đất Trà Bồng.

Lễ hội Điện Trường Bà đã được huyện Trà Bồng tổ chức long trọng với các nghi lễ truyền thống như: Lễ hoa đăng, Lễ mộc dục, Lễ tế ngoại đàn, Lễ dâng hương, Tế lễ thỉnh Bà xem hát bộ, Lễ đâm trâu…

quảng ngãi có lễ hội gì?

Lễ hội Điện Trường Bà – Quảng Ngãi

Sau phần Lễ là phần Hội với nhiều hoạt động phong phú, sôi nổi như hát múa, cồng chiêng và các trò chơi dân gian đặc sắc nhằm tuyên truyền, quảng bá rộng rãi lễ hội tới du khách trong và ngoài nước.

Lễ hội Điện Trường Bà là một lễ hội mang đậm nét tín ngưỡng văn hóa dân gian và góp phần gắn kết cộng đồng các dân tộc có chung biểu tượng mẹ Thiên YANA ở vùng đất Quảng Ngãi nói riêng và Nam Trung bộ nói chung. Qua công tác tuyên truyền của chính quyền địa phương, năm nay hàng ngàn du khách đến từ các tỉnh lân cận như Nghệ An, Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên,… đã về tham dự lễ hội với lòng thành kính cao độ.

Lễ hội cúng cá Ông – Quảng Ngãi

Lễ hội tế Cá Ông (cá Voi) được ngư dân tỉnh Quảng Ngãi tổ chức 2 lần vào mùa xuân và vào mùa thu hàng năm, được gọi là “xuân thu nhị kỳ”. Kỳ xuân là vào tháng Giêng hoặc tháng 2, kỳ thu là vào tháng 7 hoặc tháng 8 âm lịch. Thông thường vào dịp tế thu, ngư dân sẽ làm lễ tế lớn hơn kỳ xuân, vì đây là dịp để họ đền ơn Đức Ngư Ông đã phù hộ cho họ sau 1 mùa lênh đênh trên biển, có đông đảo các thành viên trong làng, trong vạn và các vạn chài lân cận cùng tham gia.

quảng ngãi có lễ hội gì?

Lễ hội cúng cá Ông – Quảng Ngãi

Trình thức một lễ hội cúng Cá Ông thông thường ở ven biển tỉnh Quảng Ngãi (được miêu tả chủ yếu qua lễ hội lăng vạn Đông Yên, lăng Cù Lao và lăng Thạch Bi) bao gồm các nghi lễ sau: Lễ túc yết, lễ nghinh Ông, chánh lễ và các trò diễn.

Lễ túc yết (hay còn gọi tắt là lễ yết) là lễ hiến cáo, được tiến hành vào chiều tối ngày chánh tế, gồm các bước từ sơ hiến, á hiến đến chung hiến. Thường là lễ cúng chay, nhằm cầu siêu tế độ cho những người bị rủi ro chết trên sông trên biển, cung thỉnh thần Nam Hải và các vị thủy thần, thành hoàng, thổ thần, các vị tiền hiền, hậu hiền, tiền vãng và hậu vãng về dự lễ.

Lễ nghinh Ông thường diễn ra vào khoảng 3 giờ đến 4 giờ sáng của ngày chánh tế, là lễ rước thần Nam Hải và các vị thần về dự lễ hội. Đoàn thuyền nghinh Ông thường có 3 chiếc thuyền được trang trí cờ hoa rực rỡ, có bày hương án, bài vị và lễ vật… Những người tham gia lễ nghinh Ông gồm có chánh tế, các bồi tế, tư văn, hành nghi, học trò gia lễ, các thầy chùa và ban nhạc lễ. Có nơi còn có cả đội chèo bả trạo và đội gươm theo hầu (như ở vạn Cù Lao – Mỹ Tân, Bình Chánh, và vạn Đông Yên, Bình Dương, Bình Sơn). Đoàn thuyền nghinh Ông thường ra cách bờ chừng 2km – 3km rồi thực hành những nghi lễ thỉnh Ông và các vị thần. Sau khi thực hành nghi lễ, đoàn thuyền rước vong Ông sẽ về chánh điện để làm lễ chánh tế.

Chánh tế là buổi lễ thường diễn ra vào khoảng 5 giờ đến 6 giờ sáng. Lễ vật dùng hiến tế trong lễ chánh tế thường phải là tam sanh, trong đó có 1 đến 2 con heo sống (đã cạo sạch lông nhưng chưa được xẻ thịt) được đặt quay đầu về chánh điện. Thành viên ban tế tự giống như những thành viên tham gia lễ nghinh Ông. Lễ chánh tế cũng diễn ra các bước sau: sơ hiến, á hiến và chung hiến như lễ yết, nhưng lễ chánh tế còn có múa gươm và có hát bả trạo. Đội gươm múa thì hầu thần theo các bước hiến tế, còn đội bả trạo thì múa sau khi các bước hiến tế đã kết thúc, vừa có ý nghĩa hầu thần lại vừa phục vụ nhu cầu vui chơi giải trí cho nhân dân trong làng, trong vạn.

quảng ngãi có lễ hội gì?

Lễ hội cúng cá Ông – Quảng Ngãi

Trước năm 1945, vào dịp tổ chức lễ hội tế Cá Ông, trong làng, trong vạn còn tổ chức các hình thức vui chơi giả trí như lắc thúng, đua thuyền, kéo co, hát đối đáp, hát bội, đấu vật, đua cà kheo…, nhưng ngày nay thì các trò diễn này đã thiếu vắng, thi thoảng mới có một số trò diễn như lắc thúng, đua thuyền, hát bội…

Ngoài những hình thức phổ biến vào những dịp lễ xuân thu nhị kỳ, còn có những nghi lễ liên quan đến việc cúng tế Cá Ông, tuy không thường xuyên nhưng cũng hết sức thiêng liêng của cư dân vùng sông nước, như lễ tang Cá Ông và lễ Thượng ngọc cốt.

Cá voi chết được ngư dân gọi là Ông bị “lụy”, hoặc “đi tu”. Khi xác cá voi trôi dạt vào bờ biển của làng, của vạn nào thì làng, vạn phải lo làm lễ tang cho Ông. Họ rất vui mừng khi được Ông “lụy” vào bờ biển của làng, cảu vạn mình, vì cho rằng đó chính là phúc lớn của làng, nên lễ tang cho Cá Ông cũng được tiến hành hết sức thiêng liêng và trang trọng. Người nào trông thấy Ông luỵ đầu tiên sẽ làm trưởng nam, chịu tang Ông trong 3 năm, như đối với chính cha mẹ mình. Sau khi làm lễ tế Ông tại lăng, thì dân làng sẽ làm lễ tế Ông tại bờ biển – nơi Ông lụy. Lễ tang của Cá Ông cũng diễn ra các bước giống như lễ tang của người chết. Có nơi cũng có đội bả trạo hát chèo hầu nhằm kể công ơn Cá Ông đã cứu mạng những ngư dân không may gặp nạn ở trên biển do phong ba, bão tố. Ngoài ban tế tự và nhân dân trong làng, trong vạn còn có đại diện các vạn chài khác đến tham gia lễ tang và phúng điếu.

Sau 3 năm, kể từ khi làm lễ tang Cá Ông, ngư dân làm lễ Thượng ngọc cốt. Lễ Thượng ngọc cốt là lễ rước cốt Ông đưa vào trong lăng để thờ. Họ rửa sạch từng bộ phận của xương Cá Ông bằng nước, rượu và nước ngũ vị trước khi đưa vào trong điện thờ. Có những nơi còn có cả nghĩa địa cá voi như ở Thạch Bi, Lệ Thủy…

Hiện nay, nhiều nơi trong tỉnh hàng năm còn tổ chức cả lễ hội cúng Cá Ông, nhưng tiêu biểu nhất là lễ hội cúng Cá Ông của các vạn chài: Đông Yên (Bình Sơn), Cù Lao – Mỹ Tân, Thạch Bi (Sa Huỳnh, Đức Phổ), lăng Chánh, lăng Thứ và lăng Tân… (Lý Sơn), lăng Cổ Luỹ Nam (Nghĩa Phú, Tư Nghĩa).

Lễ hội đua thuyền ở Tịnh Long – Quảng Ngãi

Tịnh Long là 1 xã ở đông nam của huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, xã Tịnh Long nằm ở tả ngạn sông Trà Khúc, gần sát với cửa Đại Cổ Luỹ xưa vốn là 1 thương cảng chính, khá sầm uất của Quảng Ngãi. Bởi vậy, bên cạnh nghề nông với ruộng vườn xanh tốt, cư dân Tịnh Long còn làm nghề trên sông, trên biển. Đó chính là lý do sinh ra hội đua thuyền có từ nhiều thế kỷ trước. Lễ hội đua thuyền được tổ chức hàng năm vào ngày mùng 4, mùng 5 tháng Giêng Âm lịch, với sự tham gia hưởng ứng nhiệt tình của người dân địa phương và dân cư các vùng lân cận.

quảng ngãi có lễ hội gì?

Lễ hội đua thuyền ở Tịnh Long – Quảng Ngãi

Từ khoảng giữa tháng Chạp, trong khi còn đang bận rộn chuẩn bị việc đón Tết Nguyên Đán, thì người Tịnh Long đồng thời cũng sửa soạn quyên góp tiền bạc, chọn vận động viên và tập dượt để chuẩn bị cho lễ hội đua thuyền dịp đầu Xuân. Tịnh Long gồm có 4 thôn (An Lộc, An Đạo, Gia Hoà và Tăng Long), mỗi thôn sẽ hình thành một đội đua gồm trai tráng ở cỡ tuổi 18 đến 35, mỗi đội đua sẽ có 22 đà công, thuỷ thủ, được nuôi ăn tập và phải chấp hành đúng nội quy cũng như những điều cấm kỵ khác.

Thuyền đua là một loại thuyền đặc biệt, không giống như thuyền thường, với dáng thon và dài để hạn chế được tối đa lực cản của nước. Khi đóng thuyền, người ta cũng phải chọn ngày lành tháng tốt. Thuyền đóng xong, được trang trí rất đẹp, từ đầu đến đuôi và trang trí theo hình con vật trong tứ linh. Bốn thôn trong xã mỗi thôn sẽ có một thuyền đua và được trang trí theo hình Long (rồng), Ly (lân), Qui (rùa), Phụng (phượng). Hiển nhiên, thuyền đua sẽ gắn với tín ngưỡng của nhân dân và sẽ được thờ ở am miếu của thôn, hàng năm, khi đến kỳ đua mới được làm lễ hạ thủy, có cờ, có trống rộn ràng và khi đua xong thì lại đưa về am miếu cùng với thủ tục như vậy.

quảng ngãi có lễ hội gì?

Lễ hội đua thuyền ở Tịnh Long – Quảng Ngãi

Trường đua có tổng diện tích khoảng 60.000 m2 với chiều dài 500 mét, chiều rộng 120 mét (chia thành 4 ô, mỗi ô rộng 30 mét) cho 4 thuyền đua. Sau khi bốc thăm, đội trưởng của đội đua thuyền về cọc tiêu qui định để chuẩn bị sẵn sàng khi có lệnh xuất phát. Trong mỗi thuyền đua sẽ có 15 đà công, thuỷ thủ, mặc đồng phục và ở tất cả các thuyền đều chít khăn màu đỏ. Khi có lệnh xuất phát, thì các thuyền lập tức lao lên. Tiếng trống giục liên hồi, tiếng reo hò vang dậy ở 2 bên bờ sông, những chiếc nón huơ lên cao cổ vũ, tạo nên một không khí tưng bừng và náo nức. Mỗi lần đua gồm 8 vòng với 4 km va chia thành 2 đợt đua, khoảng giữa 2 đợt đua là thời gian nghỉ giải lao để đà công và thuỷ thủ lấy lại sức.

Cách tính điểm là thuyền về nhất thì được 10 điểm, thuyền về thứ nhì thì được 8 điểm, thuyền về ba là 6 điểm và thuyền về cuối cùng là 4 điểm. Tổng cộng cả 2 ngày đua tài, thuyền nào có số điểm cao nhất sẽ giành được phần thắng và các thuyền khác cũng tuỳ theo số điểm đạt được mà xếp hạng nhì, ba hay tư. Ngày hội đua thuyền ở xã Tịnh Long thật sự là một hội vui Xuân lành mạnh và tưng bừng náo nức của cư dân cả một vùng đất.

Lễ hội đua thuyền Lý Sơn – Quảng Ngãi

Lễ hội đua thuyền truyền thống tại đảo Lý Sơn có nhiều nét tương đồng nhưng đồng thời cũng có nhiều nét dị biệt so với lễ hội đua thuyền tại Tịnh Long. Lễ hội đua thuyền tại Lý Sơn có thể xuất hiện sau lễ hội người Tịnh Long, cũng không thể thu hút được nhiều người ở vùng khác đến tham dự như Tịnh Long, vì Lý Sơn chỉ là một đảo nhỏ, cách đất liền khoảng 25 km, nhưng chắc chắn là việc đua thuyền ở đây có quy mô và qui củ hơn nhiều. Lễ hội được tổ chức từ ngày mùng 4 đến ngày mùng 8 tháng giêng âm lịch hàng năm, ngoài ra vào ngày rằm tháng Bảy, cúng tế các vị tiền hiền, người ta cũng tổ chức đua thuyền.

quảng ngãi có lễ hội gì?

Lễ hội đua thuyền Lý Sơn – Quảng Ngãi

Lý Sơn có hai đơn vị hành chính ngang nhau là hai xã trước kia là Bình Vĩnh và Bình Yến, sau lập huyện thì đổi lại là Lý Vĩnh và Lý Hải, mỗi xã đều hình thành bốn thuyền, đủ bộ “tứ linh” (long, ly, qui, phụng). Các thuyền cũng được đặt ở nơi am miếu để thờ cúng: ở xã Lý Vĩnh, thuyền long được thờ tại miếu Hoà Lân, thuyền phụng thờ tại lăng Cồn, thuyền ly thờ tại Dinh Chàm, thuyền qui thờ ở lăng Nghĩa Tự. Ở xã Lý Hải, thuyền long được thờ ở lăng Cồn, thuyền ly được đặt ở Trung Hoà, thuyền qui được đặt ở Trung Yên, thuyền phụng được đặt ở dinh Tam Toà.

Cũng như ở Tịnh Long, thuyền đua ở Lý Sơn cũng có dáng thon dài, ngang nơi rộng nhất là 1,4 mét, dài là 9,5 mét; trước kia thuyền được làm bằng khung gỗ và mê tre (tất nhiên là có trát đầu rái); sau này mê tre được thay thế bằng mê nhôm hoặc đuya-ra, vừa bảo quản được lâu, lại vừa đỡ được sức cản của nước hơn. Trên thuyền các phần được trang trí công phu hơn ở sự chạm khắc (chứ không phải chỉ vẽ như ở Tịnh Long).

Khi ghe được đưa đi hạ thuỷ, thì người ta cũng tổ chức cầu cúng vào đêm trước, sáng sớm trước và sau khi đua, để tạ ơn tổ tiên và tạ ơn các vị thần linh. Mỗi thuyền đua có khoảng từ 18 đến 20 người, trong đó có người Đập then (còn được gọn là lái nhịp) và người Tổng lái (đội trưởng). Cũng như ở Tịnh Long, mỗi thuyền đua ở Lý Sơn cũng đều có một đồng phục riêng tùy thích, nhưng bao giờ các vận động viên cũng chít khăn đỏ ở trên đầu.

Cách tính điểm đua cũng tương tự giống như ở Tịnh Long, tuy nhiên trường đua ở đây lại dài hơn (từ 800 m đến 1000 mét) và cũng kéo dài ngày gấp đôi ở Tịnh Long. Tất nhiên, sự thắng hay bại trong cuộc đua là tùy thuộc ở toàn đội, ở sự khoẻ mạnh, dẻo dai của các thành viên ở trong đội; nhưng ở đây không thể không kể đến người lái nhịp và người tổng lái. Người lái nhịp là người đứng ở giữa thuyền và giữ một trọng trách lớn, là phải dùng then (thanh tre) đánh nhịp rõ to để cho các thuyền viên bơi đúng theo nhịp. Nhiệm vụ của người đạp then nặng nề ở chỗ, là phải đứng ở giữa thuyền, giữ được thăng bằng và phải bằng sức vóc mà liên tục đánh nhịp. Nhịp đánh thưa quá thì thuyền sẽ đi chậm, nhặt quá thì có thể làm các thuyền viên đuối sức, còn nhịp không đều thì dẫn đến chuệch choạc. Một khi nhịp đã vừa mà lại có thuyền viên không theo đúng nhịp, gây lực cản thì phải kịp thời phát hiện để thay bằng một người khác. Tổng lái là người đứng ở cuối thuyền quan sát đều khắp và đồng thời đảm đương nhiệm vụ lái thuyền. Thuyền đua ở biển có đặc điểm là thủy truờng sẽ không êm như ở sông, bởi vậy, tổng lái vừa phải nhắm thẳng đến cột tiêu, đồng thời vừa phải lượn tránh sóng. Đến giáp cọc tiêu rồi thì phải bẻ lái thế nào đó để không phải mất công vòng rộng, lại không quá gấp làm thuyền dễ bị chòng chành và nhọc công sức của các thuyền viên.

Cách quyên góp để tổ chức hội đua thuyền cũng tương tự như ở Tịnh Long, nhưng việc tập dượt để chuẩn bị đua thì lại hoàn toàn khác. Nếu như để bước vào được cuộc đua chính thức, thì các thuyền viên ở Tịnh Long phải bỏ ra rất nhiều ngày tập dượt, thì ở đây lại chỉ cần vài ba ngày. Khi cả đội tập luyện, đội trưởng sẽ xem xét mực ghe để có thể thay thuyền viên cho vừa, khi mực ghe vừa rồi thì tập cho nhịp nhàng và quen tay. Sở dĩ chỉ cần ít ngày tập luyện bởi vì những người tham gia đua thuyền đều là những người hàng ngày đánh bắt cá ở trên biển, rất thông thạo với nghề đi biển.

quảng ngãi có lễ hội gì?

Lễ hội đua thuyền Lý Sơn – Quảng Ngãi

Tuy không thu hút được người dân ở nhiều địa phương khác đến, nhưng để đổi lại, những ngày đua thuyền thật sự là những ngày hội của những người dân toàn đảo. Cùng với tiếng trống giục, tiếng cờ phất là tiếng reo hò vang dậy suốt dọc bờ biển trong những ngày đầu Xuân khiến không khí ắng lặng hàng ngày đã hoàn toàn được xua tan, thay vào đó là niềm vui tươi và phấn chấn. Người ta tin rằng những thuyền đua thắng cuộc thì việc làm ăn trong năm sẽ được khấm khá, phát đạt và gặp được nhiều may mắn.

Lớp tín ngưỡng từ thời xa xưa của lễ hội đua thuyền có thể là tín ngưỡng thờ mặt trăng, nếu cần tìm ở một tầng sâu hơn thì sẽ là tín ngưỡng thờ thần biển, nhưng hiện tại, lớp tín ngưỡng ấy đã nhạt nhoà. Vì vậy, trên lát cắt đồng đại, lễ hội đua thuyền chỉ còn lắng đọng niềm tin tín ngưỡng của những người dân.

Lễ hội làng An Hải – Quảng Ngãi

Hằng năm Hội làng An Hải được tổ chức ở tại đình làng, xã Bình Châu, Bình Sơn, Quảng Ngãi từ ngày mùng 1 đến ngày mùng 7 tháng Giêng âm lịch. Hội làng An Hải được chia thành 2 phần khá rõ rệt: từ ngày mùng 1 đến ngày mùng 3 tháng Giêng (âm lịch) diễn ra các tế lễ tại đình; từ ngày mùng 4 đến ngày mùng 7 tháng Giêng vừa diễn ra lễ và vừa diễn hội.

quảng ngãi có lễ hội gì?

Lễ hội làng An Hải – Quảng Ngãi

Trong hội làng An Hải đầu xuân phần Lễ là nghi thức rất quan trọng gắn liền với các hoạt động diễn ra ở tại đình làng, bao gồm có các lễ như: lễ động thổ, lễ tế thần, lễ tỉnh sinh, lễ khai hạ, lễ ra trò… với những nghi thức dâng lễ tế thần trong và ngoài sân đình hết sức trang trọng, thể hiện lòng tri ân của con người nơi đây với thần thánh và phản ảnh tâm thức cầu mong các lực lượng siêu nhiên phù hộ độ trì cho họ có một năm mới no đủ và bình an. Nghi thức tế thần được tổ chức từ ngày mùng 1 đến ngày mùng 7 tháng Giêng trong đình, với sự tham gia của các chức sắc ở trong làng, các vị trưởng tộc của 7 tộc tiền hiền và các vị chủ lân của các xóm ở trong làng do ông Cả làng làm chủ tế.

Mỗi cuộc tế thường có từ 25 người đến 30 người tham gia thực hiện nghi thức tế lễ, bao gồm: chủ tế, bồi tế, học trò gia lễ (hai người dâng đèn và hai người dâng rượu) và đội nhạc lễ…Mỗi cuộc tế được thực hiện theo 3 bước đó là: sơ hiến lễ, á hiến lễ và chung hiến lễ. Trong lễ tế chính, người chủ tế mặc áo thụng màu đỏ; còn bồi tế, phụ tế thì mặc áo thụng màu đen hoặc màu xanh, đầu đội khăn đóng. Bắt đầu vào buổi tế, những hồi trống, hồi chiêng được gióng lên liên hồi và trong quá trình tế lễ thì đều có nhạc lễ phụ hoạ, đội nhạc lễ gồm có: phách, tiêu, kèn, trống con, xập xoã, bì và đờn nhị ngân lên những âm thanh réo rắt, tạo nên không khí thiêng liêng và trang nghiêm cho buổi lễ. Trong tiếng chiêng tiếng trống trầm hùng và mùi hương trầm lan tỏa khắp trong không gian lễ, dưới ánh đèn mờ ảo ở trong mái đình cổ kính, tạo nên một không khí uy nghi và trang nghiêm của buổi lễ tế, sau ba tuần rượu (sơ hiến, á hiến và chung hiến) là đến tuần trà và mục đọc văn tế (xướng văn). Sau các nghi thức “chúc vị” (chuẩn bị), “chuyển chúc” (tức là chuyển chúc văn đến vị trí đọc) và “đọc chúc”, văn tế được người đọc xướng lên với những âm điệu du dương, bay bỗng và dễ đi vào lòng người. Buổi tế lễ chính thức cũng được tiến hành tuần tự qua 3 bước (sơ hiến, á hiến và chung hiến) và được kết thúc khi các chức sắc ở trong làng, đại diện cho các tộc tiền hiền, hậu hiền, dân làng tới dự lễ thay nhau vào bái kiến trước các ban thờ để tỏ lòng thành kính thần linh và cầu mong sự bình an cho cuộc sống của làng của xã, của gia đình và cho chính bản thân mình. Cứ như thế nghi thức tế lễ tại đình làng được tổ chức hằng ngày, từ ngày mùng 1 đến ngày mùng 7 tháng Giêng.

Theo như qui định, khi làng chưa làm lễ động thổ đầu năm thì mọi hoạt động liên quan đến cày xới đất đai đều sẽ bị cấm và tránh những va chạm mạnh vào mặt đất, kể cả khi tế lễ tại các dinh miếu ở trong làng cũng chỉ được sử dụng loại trống nhỏ để đánh, không được sử dụng loại trống chầu, vì sợ vang động đến Thổ thần.

Thông thường lễ động thổ sẽ được tổ chức vào tối ngày mùng 3 tết Nguyên đán. Buổi lễ được tổ chức bắt đầu ở tại đình làng. Tại đình làng người ta tổ chức lễ tế thần linh bằng những nghi thức cúng tế hết sức long trọng với sự có mặt của tất cả các chức sắc ở trong làng, do ông Cả làng làm chủ tế kết hợp với sự thực hiện nghi lễ động thổ của pháp sư (thầy pháp/thầy phù thuỷ). Sau khi tổ chức lễ tế thần trong đình xong, là tổ chức lễ động thổ ở ngoài sân đình.

Để chuẩn bị cho lễ động thổ, ở ngoài sân đình người ta sẽ cắm bốn góc sân đình bốn cây đuốc đang cháy và bày ba bàn lễ vật để tế cáo thần linh theo sự hướng dẫn của pháp sư. Tế ngoài sân là do một vị pháp sư của làng thực hiện – Cả làng và chức vị ở trong làng chỉ chứng kiến buổi lễ. Sau khi các nghi thức tế lễ kết thúc, theo hướng dẫn của người thầy pháp, ông Cả làng sẽ đến hướng đại cát – hướng tốt, xúc một xẻng đất và đem đến hướng xấu trong năm (đại hung) để đổ.

Kết thúc nghi thức lễ động thổ ở tại Đình làng, ông Cả làng sẽ gióng ba hồi trống đầu năm để các lăng miếu ở trong làng biết, sau đó các lăng miếu ở trong xóm sẽ tiếp tục làm lễ động thổ. Để làm lễ động thổ tại những dinh miếu của các xóm, ông chủ xóm sẽ dùng đuốc mang ngọn lửa từ đình làng về dinh xóm để tổ chức làm lễ động thổ. Sau khi xong lễ, chủ xóm sẽ đánh ba hồi trống chầu (trống lớn) để báo hiệu cho các Lân trong xóm biết để tiếp tục làm lễ động thổ và sau đó đánh trống báo hiệu cho dân làng biết lễ động thổ đã được làng và xóm thực hiện. Sau khi làng và xóm làm lễ động thổ xong thì kể từ giờ, ngày đó người dân trong làng mới được ra đồng cuốc xới đất đai.

Ngoài ra, trong Lễ hội đầu năm tại đình làng An Hải còn tổ chức rất nhiều lễ khác trước khi tổ chức hội, như: lễ tỉnh sinh (giết vật hiến tế), lễ ra trò (xin phép thần tổ chức hội hè), và lễ khai hạ (lễ hạ nêu và kết thúc lễ hội).

Cùng với các lễ thức dân gian được tổ chức mang tính tín ngưỡng tâm linh là những trò diễn dân gian cũng hết sức phong phú và hấp dẫn tạo nên 1 Hội làng đầu năm tại đình làng An Hải mang đậm sắc thái văn hóa truyền thống của người Việt như hội đua thuyền tứ linh, những trò diễn dân gian như: Dồi bòng, đu quay, đô vật, trong đó tiêu biểu mang thu hút nhiều người dân trong xã đến tham dự và cổ vũ đó là Hội đua thuyền tứ linh. Hội đua thuyền tứ linh là lễ hội lớn nhất trong năm của nhân dân làng An Hải được tổ chức từ ngày mồng 4 đến ngày mồng 7 tháng Giêng.

Hội Dồi Bòng – Quảng Ngãi

Hội Dồi Bòng được tổ chức hàng năm vào ngày mùng 7 tháng Giêng, tại xã An Hải, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Lễ dồi bòng là một trò diễn dân gian tiêu biểu trong Lễ hội đình làng An Hải. Trong tâm thức của người dân làng An Hải, vẫn luôn nhớ về ngày hội qua một câu ca “Mùng bốn có hội đua ghe / Cho đến mùng bảy bắt phe dồi bòng”, thể hiện nhu cầu sinh hoạt văn hoá tâm linh không thể thiếu được trong những ngày tết đầu năm.

quảng ngãi có lễ hội gì?

Hội Dồi Bòng – Quảng Ngãi

Hội dồi bòng của người dân làng An Hải có từ thời xa xưa, thông qua hình thức sinh hoạt lễ hội có thể thấy đây là một trong những loại hình sinh hoạt văn hoá của cư dân nông nghiệp ở vùng đồng bằng Bắc bộ, đã theo chân người Việt trong quá trình di cư vào tỉnh Quảng Ngãi, ra đảo Lý Sơn (đầu thế kỷ XVII) và được nhân dân làng An Hải tổ chức vào ngày mồng 7 tháng Giêng hằng năm sau khi hội đua thuyền truyền thống đầu năm của làng kết thúc. Hội dồi bòng kết thúc cũng đồng nghĩa với việc kết thúc những lễ hội mùa xuân được tổ chức tại đình để nhân dân bắt tay vào 1 năm mới với những niềm tin mới và hy vọng mới sau khi giành được thắng lợi tại hội dồi bòng.

Không gian diễn ra lễ hội là ở sân đình, tại đây người ta xây một lễ đài để làm lễ được gọi là “nhà trò”, trước nhà trò trên bãi biển rộng, ở hai đầu bãi dựng hai cây tre có ngọn, cao chừng 4 mét và trên mỗi cây tre có treo một giỏ tre, trong khi diễn ra cuộc chơi thì hai phe cử hai người giữ hai cột tre của nhau, để mỗi khi quả bòng được dồi vào thì cố lắc thật mạnh để quả bòng khó lọt được vào giỏ tre, nếu người phe nào giành được quả bòng và ném lọt được vào giỏ tre của phe mình thì xem như là thắng cuộc.

Quả bòng để tổ chức hội dồi bòng được làng mua từ trong đất liền và trong những ngày cuối tháng Chạp, đến ngày “trồng đu lên phướn” (ngày 24 tháng chạp) làng sẽ tổ chức lễ để mở cửa đình chuẩn bị cho các hoạt động sinh hoạt lễ hội của làng và đưa quả bòng vào đặt tại “long đình” – nơi ngự trị của thần linh trong các ngày diễn ra lễ hội đầu năm ở tại đình làng. Vì vậy quả bòng trong hội dồi bòng không chỉ đơn thuần là loại quả để tổ chức hội mà còn là “quả thiêng” của thần linh, để sau này trong hội dồi bòng ai là người giành được, theo quan niệm của người dân, sẽ mang lại nhiều yếu tố may mắn cho bản thân, cho gia đình và cho xóm làng.

Để tổ chức lễ hội người ta chia làm hai phe (mỗi phe gồm hai xóm liền kề nhau), xã An Hải gồm có 4 xóm: xóm Tây và xóm Trung Yên làm thành một phe; xóm Trung Hoà, xóm Đông làm thành một phe, mỗi phe sẽ cử ra 1 đại diện gọi là “trùm phe” để tham gia vào cuộc chơi giành quả bòng. “Trùm phe” được trang phục giống như trang phục vận động viên thuyền đua và để phân biệt được xóm này với xóm khác người ta làm dấu chữ thập màu trắng và màu đỏ trên tráng của các Trùm phe. Trùm phe là người được tham gia lễ tế thần lần thứ hai tại “nhà trò” trước khi tổ chức hội dồi bòng.

Trước khi bước vào hội, trong ngày mồng 7 tháng giêng ông Cả làng làm chủ tế lễ thần linh tại đình làng theo nghi thức rất trang trọng với sự có mặt đầy đủ của các chức sắc trong xã và đại diện thất tộc tiền hiền để tế cáo thành hoàng bổn xứ, những vị thần được thờ cúng trong xã và xin phép làm lễ “ra trò” (tổ chức trò diễn). Sau khi tế xong ở trong đình, hương án và long đình được rước ra “nhà trò” trước sân đình để tiếp tục làm lễ tế lần thứ 2 – lễ tế này mang tính chất an vị thần linh khi di chuyển thần từ đình ra “nhà trò”. Sau khi kết thúc lễ tế và kết thúc cuộc đua thuyền trong ngày mùng 7, ông Cả làng sẽ đến trước long đình cúi lạy 3 lạy và tiến đến lấy trái bòng được thờ trong long đình bước lui ra sát sân chơi để ném trái bòng. Sau 3 hồi trống hiệu, ông Cả làng giơ cao quả bòng qua đầu, mặt nhìn vào long đình và ném ngược quả bòng ra sân để các phe tranh nhau.

Trong tiếng trống giục liên hồi và tiếng reo hò cổ vũ của hàng ngàn người xem hội, cuộc giành bòng diễn ra rất quyết liệt giữa các “trùm phe” để cố giành cho được trái bòng, có khi do sự tranh nhau còn làm cho quả bòng bị vỡ, nên sẽ chẳng có đội nào giành được quả bòng trong hội năm đó. Nếu người nào giành được trái bòng thì ngay lập tức phải ném trái bòng về đội mình để giữ lấy. Khi bòng được “trùm phe” ném ra, một cuộc tranh giành nữa cũng rất quyết liệt giữa những thành viên trong phe đã được phân chia theo xóm để cố giành và cố giữ cho được quả bòng và ngay lập tức thành viên phe nào bắt được quả bòng sẽ nhanh chóng mang quả bòng chạy về hướng xóm mình trong sự truy cản quyết liệt của đối phương, trong lúc đó người “trùm phe” cũng chạy đuổi theo để nhận lại quả bòng từ tay thành viên của phe mình và đem ném vào giỏ tre treo trên cột tre thuộc đội mình. Nếu phe nào giành và ném được quả bòng vào giỏ tre của phe mình là xem như phe đó đã thắng cuộc và được làng ban thưởng.

Quả bòng được người dân nơi đây gọi là quả “sanh yên” – đầu năm ăn quả sanh yên/thanh yên, với mong muốn đem lại điều yên bình trong cuộc sống, cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu và dân an vật thịnh, đó cũng là khát vọng muôn thuở của cư dân nông nghiệp quanh năm vất vả với ruộng đồng nhưng luôn “trông trời mưa nắng phải thì” để có cuộc sống được yên bình, no ấm hơn.

Lễ hội chùa Ông – Thu Xà – Quảng Ngãi

Lễ hội chùa Ông – Thù Xà thường được tổ chức từ ngày 14 đến ngày 15 tháng 7 âm lịch, tại thị tứ Thu Xà, xã Nghĩa Hòa, Tư Nghĩa, Quảng Ninh.

quảng ngãi có lễ hội gì?

Lễ hội chùa Ông – Thu Xà – Quảng Ngãi

Chùa Ông được những người Hoa sinh sống tại Quảng Ngãi đứng ra để xây dựng vào năm 1821 (năm Minh Mạng thứ 2),do tứ bang Minh Hương: Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và Quảng Đông đã cùng nhau tạo lập. Đã trải qua 4 lần trùng tu vào các năm 1881, 1894, 1920 và năm 1991 với sự đóng góp tiền của quan lại ở triều nhà Nguyễn, thương gia và dân chúng ở tỉnh Quảng Ngãi. Mặc dù đã nhiều lần trùng tu nhưng kiến trúc của chùa vẫn giữ được nguyên vẹn. Chùa thờ Quan Công là ở gian chính diện, Phật Quan Âm Nam Hải là ở gian hậu cung theo kiểu “Tiền thánh hậu Phật”. Ngoài ra ở hậu cung còn có cụm tượng Thiên Hậu với Thiên Lý Nhãn, Thiên Lý Nhĩ, Cửu Thiên Huyền Nữ và cụm tượng Kim Đẩu cùng với 12 bà mụ. Chùa có bố cục chặt chẽ gồm có: Cổng tam quan, Bình phong và Lầu chuông lầu trống. Trong nhà tiền đường gồm có 18 cột chia thành ba gian và hai chái. Kiến trúc theo kiểu chữ tam gồm có ba nhà liên kết với nhau: tiền đường, chính diện và hậu cung. Đỉnh bờ mái phía trước mặt chùa có ghi ba chữ: “Quan Thánh tự”. Vào lần trùng tu thời Khải Định vào năm 1920 kiến trúc của chùa đã có sự thay đổi. Chùa có 6 văn bia chữ Nho chia thành 2 loại: loại có niên hiệu Thành Thái thứ 7 (năm 1895) và văn bia niên hiệu Khải Định Canh Thân (năm 1920) là các năm đã trùng tu chùa.

Nội dung tổ chức của lễ hội, bao gồm có các hoạt động: tổ chức những nghi thức tế lễ Quan Thánh, Tiền hiền ở bên trong chùa Ông và lễ đăng đàn chẩn tế thập loại chúng sinh ở bên ngoài chùa Ông; và các phần hội như: chưng và rước xe hoa dọc theo tuyến đường thôn Thu Xà, múa lân, thả hoa đăng, phóng sinh và nghi thức diễu hành xe hoa dọc con đường thôn Thu Xà.

Trước khi bước vào lễ chính, buổi chiều ngày 14 tháng 7, Ban tế tự chùa Ông sẽ tổ chức Lễ túc yết để tế cáo Quan Thánh, thành hoàng bổn xứ và tiền hiền. Buổi tế sẽ được thực hiện qua các bước sơ hiến, á hiến và chung hiến lễ. Sau khi kết thúc nghi thức tế lễ ở bên trong chùa là đến nghi thức tế cáo âm hồn ở ngoài sân. Khi kết thúc buổi tế nhân dân đến dự lễ sẽ dâng hương tại các ban thờ trong chùa để cầu moing bình yên trong cuộc sống và gửi gắm những ước nguyện tốt đẹp đến các vị thần linh và đức Quan Thánh.

Buổi sáng ngày 15 tháng 7, lễ hội sẽ chính thức được tổ chức với nghi thức múa lân ở tại sân chùa, sau đó là đến lễ tế Quan Thánh tại chính điện và lễ tế tiền hiền. Buổi lễ sẽ được thực hiện qua các bước tế như: sơ hiến, á hiến và chung hiến lễ. Trong suốt khoảng thời gian tế, nhạc lễ sẽ được vang lên để phụ họa cho từng nghi thức lễ, làm cho buổi tế thêm trang nghiêm và thêm sinh động. Trong thực hành nghi lễ còn có một đội học trò gia lễ di chuyển từ phía ngoài sân vào bên trong chánh điện để dâng rượu, dâng trà theo mỗi bước tế. Kết thúc nghi thức tế tại điện Quan Thánh là đến nghi thức tế tiến hiền tại ban thờ tiền hiền ở tại Chánh điện. Sau khi kết thúc các nghi lễ ở bên trong chùa, nhân dân đến dự lễ sẽ vào dâng lễ vật và dâng hương tại các ban thờ Phật, Quan Thánh, Tiền hiền – hậu hiền. Đến buổi chiều là nghi lễ tế thập loại chúng sinh ở phía bên ngoài sân. Trước khi tế âm hồn người ta sẽ tổ chức lễ phóng sinh ở bên đàn tế, hàng trăm loài chim bồ câu và chim sẻ được phóng sinh trên bầu trời gửi theo những lời cầu nguyện cho xóm làng được bình yên, cho cuộc sốn được an lạc và thái bình. Đến giờ lành, 3 vị hòa thượng, gồm 01 vị chủ tế và 02 người phụ tế (đọc kinh) và vị chánh tế lễ hội sẽ bắt đầu thực hiện nghi lễ tế thập loại chúng sinh. Vị sư chủ tế sẽ đăng đàn và ngồi đối diện với đàn tế, đứng bên cạnh đó là ông Chánh tế lễ hội và ngồi đối diện với vị sư chủ tế sẽ là 02 vị sư phụ tế. Đặt ở trước mặt vị chủ tế là 01 bát gạo, 1 bát muối và 1 đĩa đặt tiền. Trong quá trình thực hiện các nghi lễ, vị sư chủ tế sẽ trộn gạo với muối và tiền lẻ vãi ra xung quanh để nhân dân dự lễ sẽ nhận lấy, theo quan niệm của những người dân việc giành lấy được những đồng tiền lẻ hay vài hạt gạo, vài hạt muối như là sự ban lộc của thần Phật cho con người và gặp được nhiều may mắn trong cuộc sống. Sau khi vị hòa thượng cúng xong dân làng sẽ đến xô cỗ và tranh nhau giành lấy các lễ vật, hoa quả tạo nên một khung cảnh sôi nổ và náo nhiệt.

Sau khi kết thúc các nghi thức tế lễ ở tại chùa Ông, khi đến cuối buổi chiều, lúc ánh mặt trời vừa tắt, dân làng sẽ tiến hành tổ chức lễ rước các xe hoa được trang trí các hình ảnh mang yếu tố Phật giáo đi khắp con đường làng. Tất cả gồm có 3 xe: xe thứ nhất là xe chưng cụm tượng Quan Thánh, xe thứ hai là xe chưng hình ảnh Phật bà Quan Âm, xe thứ 3 là xe chưng Mục Kiều Liên. Đoàn rước bao gồm có: đi đầu là một Đội lân sư rồng, tiếp theo là 14 thanh niên tay cầm lỗ bộ, 10 thanh niên tay cầm cờ, 10 thanh niên tay cầm đuốc được thắp sáng và 10 thiếu nữ xinh đẹp sẽ gánh những chiếc đèn lồng lung linh tỏa sáng được trang trí những bông hoa. Sau các thiếu nữ sẽ là 03 xe hoa rực rỡ ánh đèn, sau cùng đó là các chức sắc trong làng và dân chúng cùng tham gia diễu hành. Những chiếc xe được trang trí rất sinh động và đoàn diễu hành được bắt đầu từ chùa Ông đi khắp trong làng tạo nên một bầu không khí hội rất sôi động và sau đó sẽ tập trung tại bến sông Vực Hồng để tổ chức lễ hoa đăng.

Khi tất cả dân làng đã tề tựu đông đủ trên triền sông Vực Hồng, ban tổ chức lễ sẽ ra hiệu cho các thuyền chở hoa đăng thả hàng trăm ngọn hoa đăng nối đuôi nhau trôi lững lờ ở trên dòng sông, tỏa ánh sáng lung linh xuống dòng sông với những lời nguyện cầu cho linh hồn những người đã khuất được siêu thoát và cầu mong cho gia đình, làng xóm luôn được bình an và sức khỏe. Sau lễ hoa đăng, đoàn diễu hành sẽ quay trở về chùa Ông và làm lễ an vị Quan thánh tại chùa, kết thúc lễ hội sôi động, ẩn chứa rất nhiều giá trị văn hóa tâm linh và đầy tính nhân văn.

Lễ lên nhà mới của người Kor – Quảng Ngãi

Người dân tộc Kor, huyện Trà Thủy, tỉnh Quảng Ngãi, tổ chức lễ lên nhà mới một lần duy nhất đối với ngôi nhà mới của gia đình mình. Bởi vậy, người Kor rất coi trọng và chuẩn bị khá kỹ lưỡng với rất nhiều lễ cúng để mong muốn tổ tiên và thần linh phù hộ cho gia đình, cho dòng tộc luôn khỏe mạnh, mùa màng luôn bội thu, anh em luôn thuận hòa…

quảng ngãi có lễ hội gì?

Lễ lên nhà mới của người Kor – Quảng Ngãi

Đầu tiên sẽ là lễ cúng sống, đồ lễ bao gồm có một con heo, ba con gà sống, muối, gạo, trầu cau… để báo với thần linh (thần Cờy Vắt) và ông bà tổ tiên biết nhà mình hôm nay chính thức lên nhà mới.

Sau nghi lễ cúng sống, các đồ lễ heo sống và gà sống sẽ được đem đi làm thịt và chế biến thành các món ăn của người dân tộc Cor để tiến hành lễ cúng chín. Trong khoảng thời gian chuẩn bị cho lễ cúng chín, chủ nhà sẽ tiếp khách đến chơi, đến mừng nhà mới.

Việc chuẩn bị cho lễ cúng chín cũng khá là cầu kỳ, lễ sẽ được chia làm 3 mâm: gồm có các loại bánh như: bánh lá tốp, bánh lá đót, bánh rồng (cơm lam), cá nướng, thịt lợn, gà đã luộc, trầu cau, gạo muối… Tất cả đã được bày sẵn để cho già làng chủ trì buổi lễ cúng. Lễ cúng chín một lần nữa đã khẳng định và thông báo với ông bà, tổ tiên và thần linh là gia đình người dân tộc Kor đã chính thức lên nhà mới.

Trước nghi lễ cúng chín, chân gà sẽ được làm “phép”, được ngâm vào nước, nếu chân gà co đều thì có nghĩa thần linh phù hộ và ngược lại nếu chân gà chỉ có ngón chân giữa co có nghĩa thần linh đã không đồng ý. Tiếp đó, già làng và những người tham gia sẽ cùng nhau nâng ly rượu phép trước khi cử hành nghi lễ cúng chín.

Lễ cúng chính với tất cả các đồ lễ chín đã được bày sẵn ra, các thành viên ở trong gia đình sẽ ngồi quanh mâm cúng vừa cầu nguyện những điều tốt đẹp vừa rắc muối gạo xung quanh mâm cúng. Hương trầm hòa quyện vào với ánh lửa, tiếng cầu nguyện khiến cho không gian của ngôi nhà thêm linh thiêng mà lại ấm cúng.

Sau khoảng 20 phút lễ cúng sẽ kết thúc. Già làng và các thành viên của gia đình sẽ đem lửa và nước rắc lên nhà tum (phòng ở của từng gia đình ở trong ngôi nhà lớn). Khi kết thúc lễ cúng, người dân tộc Kor đánh cồng chiêng rồi cùng nhau múa điệu múa Cà Đáu để cầu mong thần linh và tổ tiên phù hộ cho đại gia đình người dân tộc Kor luôn được mạnh khỏe, mùa màng luôn tươi tốt…

Tiếp sau phần lễ sẽ là phần giao lưu với những người hàng xóm. Mọi người đều tập trung đông đủ ở trước nhà sàn của người Kor, trong bộ trang phục truyền thống của dân tộc mình nhưng tất cả đều hòa mình vào điệu múa Cà Đáu của người dân tộc Kor. Điệu múa của sắc màu, của mềm mại nhưng cũng rất khỏe khoắn. Ở trong phần giao lưu, ấn tượng nhất và hấp dẫn nhất đó là màn đấu chiêng của hai chàng trai người Kor. Họ cùng nhau đọ “tiếng”, tiếng chiêng dồn dập lúc nhanh, lúc chậm, lúc nhẹ nhàng lúc lại mạnh mẽ giống như trạng thái của hai chàng trai vậy. Những tiếng vỗ tay hưởng ứng mỗi lúc một to hơn, những người xem vô cùng thích thú vì lần đầu tiên được chứng kiến màn đấu chiêng này.

Sau khi cả gia chủ và cả các vị khách đã “mãn nhãn” với các tiết mục múa, đấu chiêng tất cả sẽ cùng nhau thưởng thức những món ăn đặc sản, dân dã và cùng nhau nhâm nhi chén rượu quế của người Kor tự làm và mang ra.

Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa – Quảng Ngãi

Vào ngày 16 tháng 3 âm lịch hàng năm, 13 tộc họ tiền hiền và hậu hiền ở trên đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi lại tổ chức lễ khao lề thế lính Hoàng Sa. Khác so với những năm gần đây là Sở Văn hóa – thể thao và du lịch đã đứng ra làm “chủ tế”, năm nay những người dân ở trên đảo tự tổ chức lễ, công việc họ từng làm từ hàng trăm năm nay ở trên hòn đảo này. Các nhà nghiên cứu văn hóa ở tỉnh Quảng Ngãi gọi đây là “lễ hội nhân dân”.

quảng ngãi có lễ hội gì?

Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa – Quảng Ngãi

Kể từ khi trấn nhậm phương Nam, chúa Nguyễn rồi các vua của nhà Nguyễn luôn xác định Hoàng Sa là vùng phên giậu của đất nước ta. Trấn giữ vùng “phên giậu” ấy không một lực lượng nào tốt hơn đó chính là những ngư dân ở vùng biển Quảng Ngãi, đặc biệt là những ngư dân tại đảo Lý Sơn.

Chỉ bằng những con thuyền mỏng manh, những người ngư dân của hòn đảo này đã chinh phục quần đảo Hoàng Sa bằng chính sự can trường và lòng dũng cảm của chính mình trước sự khắc nghiệt của thiên nhiên ở một vùng đất luôn phải song hành cùng với gió mưa bão tố. Đội hùng binh Hoàng Sa đã ra đời trong bối cảnh đó.

Đội quân hùng hậu và thiện nghệ luôn luôn phải đương đầu với sự khắc nghiệt của biển khơi ấy suốt 300 năm chinh phục Hoàng Sa, nhiều người trong số họ đã phải ngã xuống, thi thể của họ đã được hòa vào lòng biển của Tổ quốc. Những người con của đảo Lý Sơn một đi sẽ không trở lại ấy luôn được những người dân nơi hòn đảo này mãi mãi tri ân bằng một nghi lễ có tên là lễ khao lề thế lính Hoàng Sa.

Cứ đến ngày mồng 16-3 âm lịch hằng năm – thời điểm những binh phu của Lý Sơn tạm biệt những người thân để giong buồm trực chỉ ở Hoàng Sa từ mấy trăm năm trước, 13 tộc họ của đảo lại tổ chức lễ khao lề mà không cần phải đợi sự chỉ đạo hoặc nhắc nhở của bất cứ một tổ chức hay một cấp chính quyền nào.

Lễ khao lề như là một nhu cầu tự thân của những người dân ở trên đảo. Vào đúng ngày này, không chỉ có 2 vạn dân ở trên đảo mà có hàng trăm người con của Lý Sơn đang làm ăn sinh sống từ mọi miền của Tổ quốc cũng trở về với đất đảo, tề tựu bên mâm cúng với những món ăn dân dã mà ông bà của họ đã dùng để làm lương thảo trong hành trang của những binh phu đi Hoàng Sa từ thuở trước.

Trong buổi đoàn viên ấy, các thế hệ con em của Lý Sơn lại được nghe cha ông của họ kể về tổ tiên mình đã từng chinh phục Hoàng Sa như thế nào bằng những con thuyền mỏng manh ở trước gió bão.

Có lẽ đó là một bài học “trực quan” sinh động nhất và có sức thuyết phục nhất về lòng yêu nước đối với lớp trẻ ngày hôm nay.

Không chỉ nghe cha ông nhắc đến sự can trường của tổ tiên khi chinh phục vùng đảo Hoàng Sa để cắm mốc chủ quyền ngoài ấy, qua những bữa cơm gia đình ở trong những ngày khao lề, lớp trẻ còn được biết vì sao cây dâu vẫn còn tồn tại ở trên đất đảo cho dù những người dân Lý Sơn không hề biết nuôi tằm dệt vải là gì.

Cây dâu ấy đã song hành cùng với những người dân của đảo suốt mấy trăm năm qua chỉ để trưng dụng vào một việc đó là dùng thân của nó để làm xương cốt cho những binh phu từ thuở trước và những người ngư dân hôm nay chẳng may bỏ thân mình ở ngoài Hoàng Sa trong các ngôi mộ gió.

Lớp trẻ hôm nay ở trên vùng đất đảo cũng hiểu được vì sao những người mẹ, người bà của họ vẫn còn truyền nghề một loại bánh mang tên “bánh ít gói lá chuối khô”, dù bây giờ có hàng trăm loại bánh được xếp vào loại cao lương. Đó là thứ lương thảo vốn không bị mốc meo ở trước gió biển, đã trở thành món ăn không thể thiếu của những người lính Hoàng Sa từ thuở trước.

Lễ hội Ngày mùa lần đầu tiên – Quảng Ngãi

Lễ hội Ngày mùa lần đầu tiên tổ chức ở huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, tái hiện cảnh làng quê xưa, tôn vinh nghề trồng lúa nước, nghề làm bánh và chế biến lương thực từ lúa gạo. Lễ hội góp phần làm phong phú hơn sản phẩm du lịch ở vùng đất miền Trung này.

quảng ngãi có lễ hội gì?

Lễ hội Ngày mùa lần đầu tiên – Quảng Ngãi

Để chuẩn bị cho Lễ hội, các nghệ nhân và bà con trong huyện đã tập trung về cánh đồng rộng nhất xã Đức Tân để cùng nhau làm những hình nộm với chủ đề “Làng quê truyền thống”, mô phỏng các hoạt động lao động, sản xuất.

Tất cả hình nộm đều được tết từ rơm, rạ hoặc phụ phẩm từ sản xuất nông nghiệp. Không chỉ là sản phẩm du lịch đặc sắc, hoạt động này cũng góp phần thắt chặt tình đoàn kết giữa bà con, giữa các tổ đội, hợp tác xã trong huyện.

Xuyên suốt Lễ hội, người chơi được trải nghiệm nhiều hoạt động như gặt lúa, suốt lúa, giê lúa; làm diều và thả diều; bắt cá trên đồng ruộng; đắp lò làm bánh từ bột gạo…

Lễ hội Ngày mùa là một sản phẩm du lịch mới, giới thiệu, quảng bá rộng rãi tới du khách, không chỉ làm phong phú các sản phẩm du lịch của Quảng Ngãi mà còn giúp người nông dân có thêm thu nhập từ các ngành nghề dịch vụ liên quan, từ đó cải thiện kinh tế, tạo ra sự đổi thay cho quê hương.

Hy vọng với những lễ hội truyền thống đặc sắc, hấp dẫn ở Quảng Ngãi mà chúng tôi chia sẻ trên đây sẽ giúp bạn giải đáp được thắc mắc ở Quảng Ngãi có lễ hội gì rồi nhé. Hãy một lần ghé thăm nơi đây và cảm nhận không khí của những lễ hội tuyệt vời này. Chúc bạn có chuyến du lịch Quảng Ngãi vui vẻ và trọn vẹn niềm vui.

Đăng bởi: Tú Đỗ Tài

YOLO! Khám phá các huyện ở Quảng Ngãi

ALONGWALKER Singapore: The channel to explore experiences of global youth ALONGWALKER Philippines: The channel to explore experiences of global youth ALONGWALKER Indonesia: Saluran untuk mengeksplorasi pengalaman para pemuda global ALONGWALKER Malaysia: Saluran untuk menjelajahi pengalaman global belia ALONGWALKER Japan: 発見・体験、日本旅行に関する記事 ALONGWALKER Thailand: ช่องทางในการสำรวจประสบการณ์ของเยาวชนระดับโลก